ĐÀM HUY ĐÔNG
(Lời tựa cho tập thơ “Khúc dư hương mùa hạ” của Khương Thị Mến)
Tôi đón nhận bản thảo tập thơ Khúc dư hương mùa hạ của Khương Thị Mến trong những ngày quá đỗi bộn bề. Thú thật, ban đầu tôi không mấy hào hứng. Lần khân mãi tôi mới đọc. Thế rồi khi đọc thì không dừng lại được, như bị cuốn đi, như bị hút vào. Hóa ra là vậy, hóa ra giữa những ồn ã của cuộc đời vẫn có những tiếng thơ thắp lên trong cõi lặng, như ngọn nến nhỏ giữ hơi ấm trong đêm đông giá.
Khúc dư hương mùa hạ là tiếng thơ như thế: dịu dàng, da diết, thấm đẫm chiêm nghiệm đời người, kết tinh từ những tan vỡ và hồi sinh, từ những yêu thương và buông bỏ, từ những hồi quang ký ức và nỗ lực tự chữa lành. Từng bài thơ như những ô cửa mở, dẫn người đọc vào thế giới nội tâm của người đàn bà làm thơ – nơi mỗi cảm xúc, mỗi giấc mơ, mỗi nỗi niềm được chiết xuất qua lớp lớp ảnh hình biểu tượng. Không ồn ào, không phô trương, Khương Thị Mến vẫn thủy chung cách trò chuyện thì thầm cùng trái tim độc giả; mời gọi sự đồng cảm và níu giữ bằng chiều sâu của cảm xúc; nếu có khác so với những gì ta biết thì là ngôn từ, nhịp điệu đã thăng hoa và đằm thắm hơn nhiều.

Điều đầu tiên làm Khúc dư hương mùa hạ khác biệt, có lẽ là giọng thơ nữ tính rất riêng của Khương Thị Mến. Không phải là kiểu nữ tính khuôn sáo, thụ động, mà là nữ tính biết đối thoại, tự vấn, và tự tái sinh qua những mất mát. Kiểu nữ tính vừa mang theo bản năng yêu thương, vừa chứa đựng sự phản tỉnh, dám gỡ bỏ những ảo tưởng, những khuôn mẫu rập khuôn của người phụ nữ truyền thống. Và ta nhìn thấy người phụ nữ hiện giữa những dòng thơ tuy mong manh, yếu đuối, nhưng không chạy trốn nỗi đau; và hơn thế, dám nhìn thẳng vào cô đơn, đổ vỡ, dám vật lộn với chính mình, gọi tên nỗi đau bằng thi ca mà bước tiếp.
Từ bài thơ “Cho anh, cho em”, tiếng thơ đã chạm vào thân phận người nữ bằng sự tự nhận thức đau đớn nhưng tỉnh táo: Số phận đặt em – người đàn bà làm thơ / Ăn mày trái tim anh.
Ra vậy, ở đây tình yêu không còn là miền hứa hẹn, mà là vùng đất thử thách cảm xúc, nơi người phụ nữ vừa yêu vừa tổn thương, vừa đòi hỏi vừa buông thả. Những câu thơ như lời thú nhận, như tiếng gọi vọng ra từ thẳm sâu bản thể. Còn trong bài thơ “Buông”, người đàn bà trong thơ vật vã với chính quyết định của mình trong giữ/bỏ, yêu/buông, tiếng “buông” lặp đi lặp lại, vỡ ra như tiếng khóc dồn nén, nhấn chìm rồi giải phóng:
“Thôi buông! Buông! Buôn… Buô… Bu… B…”
(Buông)
Những dòng thơ đứt gãy. Nhịp cảm xúc đứt gãy. Tất cả như mô phỏng, như phóng chiếu hành trình buông bỏ đầy đau đớn và giằng co nội tâm. Đây là nét hiếm thấy ở thơ nữ Hưng Yên đương đại: sự can đảm nói về nỗi đau mà không bi lụy, sự mạnh mẽ nhận diện vết thương để từ đó tìm kiếm con đường chữa lành.
Chất nữ tính trong thơ Khương Thị Mến còn biểu hiện ở sự nhạy cảm với thiên nhiên, thân thể và cảm giác sống, nhưng không chỉ để mô tả, mà để suy tư, chất vấn:
“Em trở về độc thoại với đêm dài” (Độc thoại đêm)
“Tôi vỡ ra từ mảnh ghép cộng sinh / thềm đá cũ / thảm gió lùa trở dạ” (Tầm thi)
Những câu thơ như lời độc thoại sâu xa, thể hiện một ý thức bản thể mạnh mẽ – nơi người nữ soi chiếu chính mình qua những biến động cảm xúc, những ký ức, và cả sự “vỡ ra” về thân phận, giới tính và cuộc đời.
Đặc biệt, trong những bài như “Giấc mơ về phía mặt trời”, “Một ngày tháng Bảy thứ Tư”, “Tôi viết”,… ta thấy một ý thức rất rõ ràng về người viết – người nữ – người sống, ba vai trò hòa làm một, đầy trăn trở nhưng không ủy mị. Giọng thơ vì thế luôn mang sự đối thoại nội tâm rất sâu, đôi khi lặng thinh, đôi khi gắt gao, nhưng luôn giữ được sự cân bằng giữa cảm xúc và lý trí.
“Người thơ ngộ nhận / Nàng thơ đa mang” (Giấc mơ về phía mặt trời)
Từ những rung cảm về tình yêu, người chồng, người con, đến vai trò làm mẹ, làm thơ – mỗi góc nhìn trong tập thơ đều mang dấu ấn của một bản thể nữ luôn tự đối thoại và tự chữa lành bằng thơ. Khương Thị Mến viết về nỗi cô đơn, về cái chết, về đổ vỡ, nhưng không tuyệt vọng – mà như một quá trình đi qua để “giữ mình không tan vào hư vô”.
Khúc dư hương mùa hạ còn đặc sắc bởi cách Khương Thị Mến xây dựng hình ảnh biểu tượng đa chiều. Thơ chị không miêu tả hiện thực theo lối trực tiếp, mà gợi mở hiện thực thông qua thiên nhiên, ký ức, những vật thể gần gũi đời thường mà đầy sức ám gợi. Sen, sông, trăng, bóng, lá, đò, mưa… – những hình ảnh ấy lặp đi lặp lại trong các bài thơ, nhưng mỗi lần xuất hiện đều mang sắc thái mới, chứa đựng một tầng triết lý lặng lẽ.
Sen trong thơ Mến không chỉ là loài hoa của ao bùn, mà là biểu tượng của sự tồn tại trong vô thường. Trong bài thơ “Sen”, tác giả viết:
“Ngắm thôi đừng hái / Ngắm thôi đừng uống / Ngắm mà không thể níu / Giữa vô thường”; “Nở từ bùn / Tịnh thơm từ bùn”. Đó là triết lý của sự buông bỏ, của cái đẹp không thể sở hữu, chỉ có thể chiêm ngưỡng bằng tâm thế tự do. Cũng như tình yêu, như ký ức, như đời người – tất cả chỉ là những khúc dư hương không thể nào nắm giữ.
Nếu “Sen” là biểu tượng cho bản thể tỉnh thức, thì “Sông” trong thơ Khương Thị Mến là biểu tượng cho dòng chảy ký ức, cho mẹ, cho cội nguồn không ngừng trôi mà vẫn neo giữ trong hồn:
Mẹ tôi như bờ cạn
Lắng phù sa tần tảo một đời.
Hình ảnh “Sông” trong tập thơ này không chỉ hiện lên như một cảnh vật, mà còn đầy ắp tâm tình, là nơi người con tìm lại những gì nguyên sơ nhất của chính mình giữa dòng đời biến động. Bằng thủ pháp biểu tượng này, thơ Mến đã vượt qua ranh giới giữa tự sự cá nhân và khát vọng cộng hưởng với nỗi lòng chung của nhân loại.
Khúc dư hương mùa hạ hấp dẫn còn bởi sự đa thanh, đa sắc. Bài thơ “Một ngày tháng Bảy thứ Tư” đạt tới biên độ sâu nhất của dòng thơ hiện sinh. Sự sống – cái chết hiện lên như những lát cắt chớp nhoáng, thấm lạnh nhưng thức tỉnh. Đây là một trong những bài thơ trĩu nặng nhất về chiều sâu nội tâm. Thơ ở đây không được dệt bằng nhạc tính hay sự ngân rung câu chữ, mà bằng ‘tiếng thở’, ‘tiếng rên xiết’, ‘sự thiêm thiếp’, ‘vết sẹo lồi’ – những chi tiết tưởng như phi thi ca, nhưng lại gợi nên cảm thức hiện sinh đầy ám ảnh.
“Đêm trộn tôi trong bóng tối đọa đày / Ý nghĩ điên rồ và rên xiết lôi tôi đến bờ vực thẳm”
Thơ như nhật ký của một linh hồn từng trải qua cơn hấp hối. Đó là nơi sự sống, cái chết, sự tỉnh thức, sự rã rời – tất cả giao thoa trong từng nhịp thở thơ. Nhưng điểm sáng là: tác giả không chết, mà thức tỉnh. Vết sẹo trở thành biểu tượng sống còn:
“Vết sẹo nhắc tôi về sự tồn sinh, diệt vong và được mất / trong vô thường trôi đi”
Đọc những câu thơ như vậy, ta cảm nhận được thanh rất thật, rất gần – tiếng thì thầm của con người trước giới hạn hữu hạn của chính mình.
Từ một phương diện khác, bài “Giấc mơ về phía mặt trời” đưa thơ Khương Thị Mến bước sang vùng địa hạt “thơ – trong – thơ”, tức là thơ viết về việc làm thơ, mối quan hệ giữa “em” và “người nghệ sĩ”, giữa “thơ” và “thực”.
“Tình yêu không son phấn / Tình yêu viết từ đơn âm buồn mang mang”
“Người thơ ngộ nhận / Nàng thơ đa mang”
Ở đây, thi ca là một sự ngộ nhận – yêu là ngộ nhận – nghệ sĩ là biểu tượng – và cái kết là hụt hẫng. Cấu trúc bài thơ mang phong cách “phân mảnh” của hậu hiện đại: không tuyến tính, không rõ mở – thân – kết, mà là những mảnh ghép xúc cảm.
Và nếu như: “Một ngày tháng Bảy thứ Tư”, “Sông Hồng” là hai bài thơ đầy trầm tích, hiện sinh và tự sự, khi nhà thơ không ngại chạm vào giới hạn sự sống, thậm chí cái chết, để rồi vươn lên như một hành trình trở về bản thể. “Sen” – bài thơ cô đọng, giàu triết lý – là tuyên ngôn im lặng về vẻ đẹp không cần nắm giữ, chỉ cần được ngắm để hiểu và vượt qua. Thì “Khúc dư hương mùa hạ” – Bài thơ mang tên tập thơ – chính là một trong những bài có cấu trúc tốt nhất, vừa giàu cảm xúc, vừa chắc về thi pháp, như một bản tuyên ngôn thi ca và nữ tính:
“Những câu thơ rùng mình hấp hối / Những câu thơ bão nổi rối tơ vò”
“Sông có nông sâu mới thấu cạn lòng đò”
Thơ được Người thơ đặt bên tình yêu, bên sự chia ly, như một thực thể sống, biết đau, biết rối, biết trầm tích. “Khúc dư hương mùa hạ” là dư vị của một tình yêu đã qua, nhưng cũng là dư vị thi ca, nơi con chữ lặng lẽ “bốc mùi” kỷ niệm. Đặc biệt, bài thơ khép lại bằng hai chữ “Riêng em” – rất Mến:
“Lá thức tràn bao nuối tiếc / Riêng em.”
Chỉ hai chữ, mà khép lại cả một không gian cô độc đầy kiêu hãnh.
Đi cùng với dòng cảm xúc nữ tính và hiện sinh là tình yêu quê hương, đất nước nhẹ nhàng mà sâu sắc. Các bài thơ viết về Hưng Yên, Phố Hiến, Văn Giang, Tam Đảo, Thái Nguyên… trong tập không chỉ là mô tả cảnh vật, mà là cách người thơ tìm thấy sự cộng hưởng với đất và người. Trong ánh nắng, trong dòng nước, trong bông loa kèn hay nhành hoa gạo – đều ẩn giấu một phần ký ức, một phần máu thịt không thể tách rời.
Tôi vịnh trăng Tiên Điền trên Phố Hiến
Gió Nguyệt Hồ xanh sắc áo văn nhân.
Hình ảnh quá khứ và hiện tại hòa quyện, những địa danh không còn là nơi chốn mà trở thành nhân vật, trở thành những nhân chứng thầm lặng cho những mùa hạ đã qua, cho những khúc ca chưa kịp tắt.
Ngôn ngữ thơ của tập thơ này cũng đáng chú ý với sự tự do và linh hoạt. Khương Thị Mến không bó buộc mình vào những hình thức niêm luật cũ, cũng không chạy theo kiểu phá cách cực đoan. Chị chọn cách để cho cảm xúc dẫn dắt hình thức: khi cần thì lục bát truyền thống, khi cần lại dòng thơ tự do phóng khoáng, lúc lại là dòng ý thức phân mảnh như trong những bài thơ hiện sinh. Chị không theo một trường phái thi pháp cố định, mà thiên về “lối thơ của cảm xúc”. Nhiều câu thơ mang cấu trúc vỡ vụn, phi tuyến tính, tạo cảm giác như dòng ý thức đang trào ra, bất chấp hình thức:
“Tôi trốn trong bồ thi ca / Đục trong cũng là nước mắt”
Tất nhiên, ở một số điểm, Khúc dư hương mùa hạ vẫn để lại vài khoảng lặng chưa trọn vẹn. Đôi khi, cảm xúc dồi dào khiến cấu trúc bài thơ trở nên dàn trải; một số hình ảnh biểu tượng tuy đẹp nhưng lặp lại ở một vài bài. Nhưng đó là những hạn chế rất tự nhiên của một người viết thành thật – người không gọt giũa thơ để trưng bày, mà thả thơ trôi theo nhịp thở thật nhất của mình.
Và có lẽ chính vì thế, thơ Khương Thị Mến chạm được vào trái tim độc giả. Không cần ồn ào tuyên ngôn, không cần trang sức lộng lẫy, những câu thơ trong Khúc dư hương mùa hạ lặng lẽ gieo mình xuống lòng người, như những giọt dư hương còn vương lại khi mùa đã trôi qua.

Đọc hết tập thơ, ta không chỉ thấy một người đàn bà làm thơ, mà còn thấy một hành trình: hành trình đi qua yêu thương, đổ vỡ, tha thứ, tự do và cứu rỗi. Đó là hành trình của một tâm hồn tìm kiếm ánh sáng trong chính những vết nứt của đời mình.
Và sau cùng, như một lá thư tình thầm lặng gửi vào vũ trụ, Khúc dư hương mùa hạ vẫn cứ ngân vang, ngay cả khi tất cả đã khép lại. Bởi thơ – như chính tác giả đã từng viết – không phải để nắm giữ điều gì, mà để mỗi người lặng lẽ mang theo một khúc dư hương riêng cho mình.
Khương Thị Mến – với tập thơ này – tiếp tục mạnh mẽ xác lập một hành trình thơ riêng. Hành trình của một người đàn bà đi qua buồn vui cuộc thế, bước ra khỏi những bóng tối và mỉm cười nhâm nhi lại… một khúc dư hương mùa hạ.
Lập hạ 2025