Nhà văn của những người nông dân

Home NHÀ VĂN & CUỘC SỐNG Chân dung cuộc sống Nhà văn của những người nông dân
Nhà văn của những người nông dân

Một buổi sáng năm 1991, tôi lóc cóc đạp xe vượt qua gần 20km trong trời hè nóng nực, từ nhà xuống xã Vũ Lăng huyện Tiền Hải để gặp Nhà văn Trần Văn Thước. Tôi cứ tưởng một nhà văn nổi tiếng chuyên viết về nông dân, nông thôn như ông sẽ sống trong ngôi nhà thoáng mát, có vườn cây, ao cá; nhưng không, Nhà văn Trần Văn Thước đấy, ông thò đầu ra khỏi ô cửa sổ của căn phòng cấp 4 hơn chục m2 ngột ngạt nằm ngay sát đường làng, bảo rằng: “Ô Vũ Đảm đấy à, khách quý, thẩn nào sáng sớm nay đã thấy máy mắt; vào đây, vào đây!

Tôi bước vào căn phòng cấp 4, kê vỏn vẹn một chiếc giường be bé, một cái tủ dài, bên trong xếp đầy hàng, bên trên cũng treo lủng lẳng thuốc lào, nấm, mộc nhĩ, thuốc lá, kẹo lạc,.. thì ra ông vừa viết văn vừa kiêm bán tạp hóa để nuôi ba đứa con ăn học. Tôi đặc biệt chú ý đến cái bàn viết có một không hai trên thế gian này của ông, đó là chiếc hòm gỗ nhỏ đặt trên chiếc tủ đựng hàng, và mỗi khi vắng khách, ông lại lấy tập giấy học sinh cùng cây bút ra để viết. Hai chân ông bị thương tật, không tự đi lại, mỗi khi di chuyển, ông phải chống nạng, lê bước đến bàn viết; các nhà văn hay viết ngồi còn ông thì phải viết đứng, mà đứng cũng không vững, phải một tay chống nạng, hoặc đặt bám vào bàn, còn tay kia cầm bút cho nên mỗi con chữ của ông chất chứa cả sự đau đớn về thể xác. Nhưng đấy chính là thế giới tự do để ông thả hồn vào những trang viết. Ông bảo cuộc đời ông có ba điểm tựa. Điểm tựa thứ nhất chính là bố mẹ đã sinh thành và nuôi ông khôn lớn; Điểm tựa thứ hai là vợ ông, cô thôn nữ ở xa tít xã An Khang, huyện Yên Sơn, Tuyên Quang đã hy sinh tất cả cho cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông. Năm 1979, ông đang làm việc ở nhà máy toa xe đường sắt Bắc Thái thì bị tai nạn, một thanh sắt nặng rơi ngang lưng khiến ông bị liệt. Năm 1985, sau 6 năm chữa trị  hết bệnh viện Đường Sắt, bệnh viện Việt Đức đến Trung tâm phục hồi chức năng Ba Vì không khỏi, ông và vợ con lếch thếch kéo nhau về quê. Không có ruộng, không có lương, bao khó khăn đổ lên đôi vai gầy của vợ. Chị tắm rửa, vệ sinh cho chồng hàng ngày; rồi làm thuê, buôn bán nuôi cả nhà. Nếu Nhà thơ Tú Xương, xưa đã từng viết về vợ: “Quanh năm buôn bán ở mom sông/ Nuôi đủ năm con với một chồng.”, thì nay Nhà văn Trần Văn Thước cũng có thể viết về vợ ông: “Quanh năm bán tạp hóa ở chợ làng để nuôi đủ ba con với một chồng”. Mãi sau này, vợ chồng ông mới được cấp 7 sào ruộng và trợ cấp thương tật nhưng cũng vẫn phải giật gấu vá vai mới đủ sống và nuôi con ăn học; Và điểm tựa thứ ba của cuộc đời ông chính là văn chương. Từ chàng trai khỏe mạnh, hai 25 tuổi yêu đời phơi phới, nay đây mai đó bỗng trở thành người tàn tật, chỉ quanh quẩn trong vài m2, ông như đang ở thiên đường rơi xuống địa ngục nhưng ông không ngục ngã, thể xác ông tựa vào bố mẹ vào vợ để tồn tại, tinh thần ông tựa vào văn chương để sống và ông đã gượng dậy, cầm bút, đau đớn từng con chữ, nhọc nhằn từ trang viết.  

Sau lần gặp gỡ đầu tiên đó, tôi đọc truyện, ký của ông nhiều hơn. Bước vào trang văn của ông, người ta có thể nhắm mắt lại cũng tưởng tượng ra cảnh người nông dân vác cuốc ra đồng, người chồng và con trâu đang cày ruộng, người vợ lom khom cấy lúa trên cánh đồng căm căm gió mùa Đông bắc thổi hoặc dưới cái nắng nóng thiêu đốt của mùa hè khiến cua cũng phải ngoi lên bờ nhưng bàn chân của người nông dân vẫn phải cắm sâu xuống bùn. Hay những người nông dân trong tháng Ba ngày Tám đói kém, họ đói ăn, phải vay lãi, phải đi phiêu bạt xứ người để kiếm sống nhưng đói cho sạch, rách cho thơm, vẫn san sẻ tình yêu thương, nghĩa tình làng xóm tắt lửa tối đèn có nhau trong truyện ngắn: “Tháng ba thương mến” của ông. 

Một ngày đông ảm đạm năm 1996, tôi lại đạp xe xuống thăm Nhà văn Trần Văn Thước, thấy mấy người đàn bà đang mò cua bắt ốc trên con sông Trục ở làng ông thì xuống xe hỏi trời rét cắt da cắt thịt thế này sao các chị không ở nhà mà ra sông mò mẫm thế? Một chị bảo đói thì đầu gối phải bò thôi, cả cái làng này, hết việc đồng áng, đàn ông thì đánh dậm, đàn bà thì đi mò chứ cũng chẳng riêng gì chúng tôi. Một chị khác hỏi tôi là người trên tỉnh xuống à? Tôi đáp không, cũng ở quê xuống thăm Nhà văn Trần Văn Thước. Thế à, cái ông Nhà văn bị què chân ấy viết hay ra phết, những thân phận mò cua bắt ốc, đánh dậm, riu tép như chúng tôi cũng được đưa vào truyện đấy! Họ nói với cái giọng đầy tự hào về nhà văn của làng mình.  

Không chỉ viết những người nông dân chân lấm, tay bùn mà Nhà văn Trần Văn Thước còn viết về sự chuyển động của nông thôn từ thời bao cấp sang kinh tế thị trường, với những cái tốt, mặt xấu đan xen như phe phái, dòng họ trong bầu bán; sự quan liêu, tham nhũng của đám quan chức làng, xã mà điển hình có thể kể đến như truyện ngắn Trạm xá làng; một truyện ngắn hay đã từng được giải thưởng của báo Văn nghệ. Than ôi, cái mảnh đất trong trạm xá dùng để trồng thuốc Nam chữa bệnh cho dân cũng biến thành cái khu đất chuyên trồng rau thơm cho các quan chức xã đánh chén; vì đi xin rau thơm của dân nhiều quá thì dân biết cán bộ hay tụ tập ăn nhậu nên tốt nhất trồng rau thơm ngay tại trạm xá, muốn ra vặt lúc nào cũng kín đáo. Rồi khi xã thực hiện chủ trương của trên về kế hoạch hóa gia đình, đặt vòng tránh thai thì mấy chị nông dân yếm thế bị dân quân lùa từ ngoài đồng về, chân tay còn lấm lem bùn đất cũng đưa lên bàn đặt vòng cho đạt chỉ tiêu, đúng tiến độ. Còn vợ quan chức hay bọn có tiền dù đã leo lên bàn rồi thì có “công văn” mồm hỏa tốc dừng lại ngay với lý do sức khỏe yếu không thể đặt vòng, nhà toàn con gái cần có thằng cu chống gậy; hoặc có đặt vòng nhưng đặt trệch đi để vẫn mang thai được.

      Nhà văn Trần Văn Thước

Trong văn chương, Nhà văn Trần Văn Thước sắc sảo, mạnh mẽ, bản lĩnh nhưng trong cuộc sống đời thường ông lại là một người nông dân hiền lành chất phác. Tháng 10 năm 1993, tôi lên Hà Nội học ở Trường viết văn Nguyễn Du, sau ra trường làm báo luôn ở thủ đô nên chỉ về thăm ông được vào dịp Tết; có một dạo vì bận cuộc sống mưu sinh, đến hơn hai năm tôi mới về thăm ông được, ông gói cho vợ con tôi đủ thứ, gạo nếp, đỗ lạc, đỗ đen; ăn cơm trưa xong, tôi trở về Hà Nội, ông đã òa khóc. Người ở làng hay bạn bè nhờ ông việc gì, ông rất nhiệt tình nhưng ông lại rất tránh gây phiền toái cho mọi người; Thấy ông nghèo quá, tôi đề nghị ông gom các truyện lại để tôi tìm nơi in, ông có sách và có nhuận bút trang trải phần nào cho cuộc sống, ông ngại làm phiền tôi, tôi phải giục nhiều lần, bảo rằng in không mất tiền, ông mới chịu đưa bản thảo. Tôi lại bảo ông có sách rồi làm đơn xin vào Hội Nhà văn Việt Nam đi nhưng ông có vẻ tự ti, mình chỉ là người viết văn ở làng sao dám sánh với các bậc đàn anh trong cả nước. Giục mãi rồi ông cũng viết đơn, Nhà văn Đức Hậu là người giới thiệu thứ nhất, còn người thứ hai, tôi mang đơn lên Hà Nội nhờ Nhà văn Cao Tiến Lê giới thiệu; đơn nộp được mấy tháng thì ông được kết nạp ngay bởi Hội đồng văn xuôi và Ban chấp hành đều đã đọc đã biết đến ông. 

Tôi với ông chơi với nhau thân thiết, vừa là anh em vừa là bạn bè đồng; Cụ Trần Tố, thân sinh của ông bảo: “Anh em ruột nhiều khi cũng không được như thế!” nhưng khi cụ qua đời năm 2007, chôn cất xong ông mới nhắn tin cho tôi là cụ đã mồ yên mả đẹp; ấy là ông sợ tôi xa xôi, bận việc nên không muốn tôi phải lặn lội về viếng cụ. Ông cụ là lão thành cách mạng, cũng từng vào sinh ra tử thế nhưng thời bình, trở lại là người nông dân thì cụ hiền từ lắm; mỗi lần xuống nhà, tôi trò chuyện tâm đắc với cụ, tới bữa ăn, cụ đều dành miếng ăn ngon cho tôi. Vụ này thì tôi giận Trần Văn Thước và để “trả thù”, giáp Tết năm 2011, bố tôi qua đời ở quê, tôi cũng không báo tin cho ông nhưng trong tang lễ vẫn thấy Ban tổ chức xướng tên: “Xin mời cháu Trần Văn Thước ở Vũ Lăng, Tiền Hải vào viếng cụ!”, thì ra ông nghe tin bố tôi mất từ bạn bè văn chương và ông đã nhờ người em ruột lên nhà viếng bố tôi!   

Văn chương ở làng đã mang đến cho Nhà văn Trần Văn thước niềm cảm hứng để sống để viết nhưng cũng có lúc nó mang đến cho ông cả sóng gió. Bút ký “Xin hãy lắng nghe” của ông được giải Nhì cuộc thi bút ký báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1989 đã gây ầm ĩ ở làng, ông tố cáo một số quan lại ở địa phương sống tha hóa, vơ vét, hống ách với dân thế là họ xúm lại tổ chức cả một cuộc họp ở hội trường có loa phát cho cả làng để lên án ông vu cáo, nói xấu cán bộ, nói xấu làng quê. Rất may một số đảng viên lão thành và quần chúng tốt đã đứng lên bảo vệ ông bảo vệ sự thật; thế là cuộc họp lên án Nhà văn tan rã. Ông không phải trốn khỏi làng như Nhà văn Phùng Gia Lộc ở Thanh Hóa sau khi cùng tham dự cuộc thi bút ký báo Văn nghệ với bút ký gây chấn động cả nước: “Cái đêm hôm ấy đêm gì”; mà có trốn cũng chả được vì hai chân ông bị liệt, ngày ngày ông chỉ quanh quẩn trong bốn bức tường. 

Cái vụ bút ký này chìm đi thì lại nổi lên cái truyện ngắn: “Họ Chu Đức làng Trình” xem ra còn căng hơn; một đoàn người gồm các cụ bô lão mang tờ báo in truyện của Trần Văn Thước và cả gia phả họ Chu sang tận nhà ông bảo rằng, dòng họ chúng tôi danh giá, trâm anh thế phiệt sinh ra cả công Chúa, con cháu toàn người đỗ đạt làm quan, làm cán bộ to thế ra ông viết vậy là nói họ chúng tôi loạn luân à? Mặc dù Nhà văn Trần Văn Thước nói rằng đây là truyện ngắn hư cấu nhưng họ vẫn tuyên bố sẽ kêu gọi con cháu trong cả nước về đây để nói chuyện với ông! Thấy sự việc rất căng thẳng, Nhà văn Đức Hậu- Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Thái Bình đã phải xuống tận nơi gặp gỡ, thuyết phục các cụ bô lão và xác nhận bằng văn bản  đây là truyện ngắn hư cấu không có giá trị pháp lý, còn sự trùng hợp tên họ Chu, tên làng Trình là ngẫu nhiên và Trần Văn Thước xin lỗi các cụ về sự trùng hợp này. Qua nhiều lần gặp gỡ, hòa giải rồi chuyện cũng qua đi và tất nhiên Trần Văn Thước cũng rút ra được bài học kinh nghiệm trong cái sự nghiệp viết văn nhọc nhằn ở làng. 

Đầu năm 2021, nhân kỷ niệm tròn 30 năm gặp nhau lần đầu tiên, tôi lại từ Hà Nội về quê, xuống làng Vũ Lăng thăm Nhà văn Trần Văn Thước, việc đầu tiên là tôi đặt hoa quả lên ban thờ thắp hương cho cụ ông cụ bà, thầm khấn mấy câu để các cụ biết là tôi lại đã về ngôi nhà mà tôi coi như nhà mình đây. Bây giờ thì Nhà văn Trần Văn Thước đã bước vào cái tuổi gần 70, ngày ngày ông vẫn bán hàng qua ô cửa để kiếm sống, cái ô cửa trước kia bằng gỗ nay được xây bằng gạch, chả là bố ông là lão thành cách mạng nên được trợ cấp 50 triệu để sửa nhà, thế là gia đình vay mượn thêm, phá ngôi nhà tranh xây thành ngôi nhà mái bằng. Ba người con của vợ chồng ông đều đã học xong đại học, cao đẳng và có gia đình riêng; cô cả là giáo viên trường làng, cậu hai sinh sống trên Bắc Kạn còn  cô út thì theo chồng vào tận Quỳnh Lưu- Nghệ An. Hai vợ chồng già sống với nhau, 7 sào ruộng cho người làng cấy thuê, mỗi vụ trả được cả thảy 105 kg thóc còn cái sổ trợ cấp thương tật hơn 3 triệu thì đã cắm ở ngân hàng nhiều năm và có nguy cơ “hưu” vĩnh viễn trong két ngân hàng vì vợ chồng ông phải vay một khoản để giúp một người con làm ăn thua lỗ. Chị Tuyên, vợ ông cũng đã già đã  đã yếu, buôn bán  lại không cạnh tranh được nữa nên nghỉ bán hàng ở chợ;  thế nên cái ô cửa sổ lại là nơi tạo ra nguồn sống chính của vợ chồng ông. Cũng chỉ là đủ sống mòn, lo tiền đi ma chay, cưới xin ở làng, còn tiền thuốc thang khi ốm đau thì ông bảo cứ sang vườn nhà hàng xóm vặt lá cây về mà uống, không khỏi rồi cũng phải khỏi!  

Khi rảnh rỗi thì ông làm ván cờ tướng với mấy ông hàng xóm sang chơi; còn khi tĩnh lặng, ông vẫn cặm cụi viết, sức khỏe ông đã yếu dần nên sức viết của ông cũng vơi đi nhưng cái nghiệp cầm bút đã gắn chặt với cuộc đời ông, ngừng viết đối với ông là ngừng sự sống. 

Cho đến nay, sau gần 50 năm cầm bút, ông đã cho ra đời 14 tác phẩm- 2 tiểu thuyết và 12 tập truyện ngắn, cùng hàng chục bút ký; ông được nhiều giải thưởng truyện ngắn, bút của Báo Văn nghệ, tạp chí Văn nghệ quân đội, Ủy ban toàn quốc Hội LHVHNT Việt Nam, giải thưởng văn học Lê Quý Đôn nhưng giải thưởng lớn nhất mà ông có được  chính là những truyện ngắn in đậm hình ảnh người nông dân của ông không những được dân làng ông say mê đón đọc mà còn được đọc giả cả nước yêu mến.

Nhà văn Đức Hậu, cả khi còn đương chức Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Thái Bình nhiều khóa lẫn khi đã về hưu rất hay xuống thăm Nhà văn Trần Văn Thước, khi thì đàm đạo văn chương, lúc thì chơi với Trần Văn Thước mấy ván cờ tướng. Là người đọc, duyệt in những truyện ngắn đầu tiên của Trần Văn thước trên Tạp chí Văn Nghệ Thái Bình cho đến hàng chục truyện sau này nên ông rất hiểu con người và văn chương của Trần Văn Thước: “Làng quê bình lặng với những cánh đồng, dòng sông bến nước, nhưng ẩn chứa bên trong là  những cảnh đời không đơn giản được Trần Văn Thước chắt lọc nên những trang văn thấm đẫm tình yêu và lòng nhân ái. Đọc Trần Văn Thước, người ta cảm nhận được một vùng nông thôn đang biến động mãnh liệt do tác động của kinh tế hàng hoá, một thế hệ nông dân mới với lối sống mới, cách ứng xử mới, với những mâu thuẫn, va chạm lợi ích mới, nhưng tựu chung lại anh vẫn dựng lên một bức tranh về nông thôn thời hiện đại với nét đẹp được lưu giữ bằng văn hoá làng truyền thống của riêng anh…”.

Làng còn thì Nước còn, làng quê Việt Nam đã có nhiều thay đổi, cây đa bến nước, sân đình có thể mất đi nhưng hồn cốt của làng là tình làng nghĩa xóm, là tối lửa tắt đèn có nhau thì vẫn mãi mãi trường tồn; Trần Văn Thước- Nhà văn của làng, của những người nông dân đã và đang gom góp những trang văn của mình để làm cho văn hóa làng như ánh nắng ban mai bao trùm làng quê mỗi buổi sáng.

Vũ Đảm

Leave a Reply

Your email address will not be published.