Vài nét về tác giả:
Quê quán: Hà Tĩnh
Hiện công tác tại Thủ đô Moscow – Liên bang Nga
Giảng dạy Văn học Nga. Đã in hơn 30 đầu sách, bao gồm dịch thuật, nghiên cứu văn học, thơ và văn xuôi.
______________________________________________
Nghe mùa thu gọi
Bao lần từ độ trăng lên
Đêm đem vạt áo dãi trên lá vàng
Chờ cho gió lặng, sao tàn
Áo khăn gói mối sầu giăng, tôi về
Một mình với mảnh trăng quê
Một mình và cả tứ bề mênh mông
Một mình tôi, một tấc lòng
Đêm thu trải hết lên nong lá buồn
Hôm qua trời đổ trăng suông
Lá rơi, in dấu chân sương ngỡ ngàng
Tôi nâng lấy chiếc lá vàng
Nghe mùa thu gọi trong làn hương khuya
_________________________________
Tiếng gọi
Bỗng trong mưa bụi trắng trời
Tiếng ai nhắn gọi, hay lời tháng năm?
Dặm về, nẻo vắng xa xăm
Chiều đông thấm mỏi bước chân độc hành
Đâu rồi, bếp rạ, mái tranh
Đâu rồi, lối ngõ uốn quanh xóm nghèo?
Sân đình, bến nước trong veo
Cây đa đêm hội, trăng treo. Đâu rồi?
Tìm đâu ra giữa quê người
Cỏ xanh đầu bãi, chiều phơi nắng vàng
Rặng tre nghiêng xuống giếng làng
Bóng ai tóc xõa, trăng loang vai mềm
Chập chờn nhớ giữa trời quên
Lòng quê lãng đãng trên miền mộng mơ
Chiều đông, mưa tuyết mịt mờ
Quê hương xa vắng, dường như nhắn về…
_________________________________
Làng quê Nga hoài niệm
Hai mươi năm trước, tôi tìm đến
Tháng Năm xanh thắm cỏ chân đồi
Bên hồ lấm tấm hoa ngân tước
Cô gái chân trần, tóc nắng phơi
Bà mẹ người Nga, cười đôn hậu
Buộc tấm khăn san, mở cổng vườn
Gió sớm khẽ lay hàng dâu dại
Tràn ngập căn phòng hương táo thơm
Cốc kvat đỏ như màu mận
Sủi bọt men chua uống tỉnh người
Chiếc bánh ra lò còn bỏng giẫy
Sơn hào cũng đến thế này thôi!…
Nhà mẹ Nga xưa, tôi về lại
Hỏi mãi, tìm ra lối qua làng
Chợ nông trang cũ tường xiêu vẹo
Bãi chăn nuôi giờ bỏ phế hoang
Vườn xưa cánh cổng um tùm cỏ
Nhà trống, gió lùa, bếp lạnh tanh
Tấm thảm ố vàng, mưa dột thấm
Phủ mờ, bụi bám những bức tranh
Ông lão đưa đường thờ thẫn kể
Trai làng đi hết, chẳng còn ai
Xóm trên còn độ dăm con trẻ
Già cả như tôi, chỉ mươi người
Ơn Chúa, có bà còn tốt phước
Mỗi năm con đến một đôi lần
Còn thì, như lá thu sắp rụng
Ngồi chờ Thần Chết ghé qua thăm
Tôi có đứa con lên thành phố
Làm ăn, nghe nói khổ trăm bề
Thân nó, nó lo còn chưa đủ
Tôi già, biết vậy, có mong chi…
Suốt chuyến xe về, lòng trĩu nặng
Làng quê thuở ấy, thế này sao?
Đâu rồi người mẹ Nga đôn hậu
Trùm tấm khăn san, tựa cổng rào?
___________________________
Đêm Valentine
Thành phố ngập sắc màu, tuyết dịu dàng rắc phấn
Đêm lung linh, náo nhiệt suốt canh khuya
Sau cửa kính, nến hồng, hoa thắm đỏ
Níu bàn chân du khách dạo trên hè
Trên quảng trường, dòng người như trẩy hội
Từng cặp đôi ấm áp áo lông choàng
Say men rượu, mắt tràn trề hạnh phúc.
Tôi một mình lạc lõng giữa trần gian
Trên sàn nhảy, sao thiên hà mờ ảo
Những gót hồng lướt theo nhạc du dương,
Chọn cho mình chiếc bàn con góc vắng
Gọi cà phê, tôi nhấp nháp nỗi buồn
Một cô gái phấn son, còn trẻ lắm
Ghé tai tôi: nếu anh có đủ tiền
Tôi cùng anh sẽ thuê phòng khách sạn
Đến hết đời, anh chẳng thể nào quên!
Anh đừng ngại, tôi biết anh cô độc
Đêm Valentine, anh chỉ có một mình
Ai cũng vậy, khi đơn côi, trống rỗng
Cần người tình và cốc rượu sămpanh
Tôi kéo ghế, mời cô ngồi bên cạnh
Gọi sămpanh và bước lại quầy hoa
– Ba trăm rúp một bông! – người bán hàng cao giọng
– Cho năm bông, giấy kính, buộc lenta!
Cô cầm lấy, tôi trao tay cô gái
Những bông hoa rực đỏ một góc tường
Nỗi lận đận, bọt bèo nơi đất trích
Lòng dùng dằng ca kỹ bến Tầm Dương*
– Tôi là ai, chắc rằng anh đoán biết
Bước sa cơ, chân sụp xuống vũng bùn
Đã bao phen liều mình, không muốn sống
Lại cùng đường, kiếp nạn vẫn không buông…
– Tôi cũng vậy, kẻ hàng binh số phận
Cũng rơi rụng, đắng cay, câu chuyện rất dài…
Cô trẻ, đẹp, tin rằng cô hạnh phúc!
Mắt đượm buồn nhìn tuyết phất phơ bay…
——-
* Địa danh trong “Tỳ bà hành” của Bạch Cư Dị
____________________________________
Đêm 8-3
Đêm khuya khoắt, bên vệ đường lầm bụi
Chị nhà quê dáng run rẩy, co ro
Tay cóng lạnh, ôm bó hoa ế ẩm
Chân dại tê, nhẫn nhục đứng hàng giờ
Xe nườm nượp, nam thanh cùng nữ tú
Các quý ông thời thượng mượt bóng đầu
Khoác tay các quý bà diêm dúa
Đang trưng ra một thế giới sang giàu
Bỗng nhiên một chàng trai ghé lại:
– Hoa bao nhiêu? Chị mang hết ra đây!
Chị nhà quê trước vận may nghẹn giọng
-Dạ thưa ông, tất cả mỗi ngần này!
-Chị ở đâu?
-Tận ngoại thành, xa lắm!
-Ngày hôm nay có ai tặng chị hoa?
-Loại như tôi, xin ông đừng mai mỉa
Có bao giờ mơ những thứ cao xa!
-Chị hãy về với chồng con kẻo muộn
Tôi sẽ mua tất cả bó hoa này
Xin tặng chị!
Chị nhà quê oà khóc
Giọt lệ nhoè, rơi nóng cả bàn tay.
_____________________________
Thời hậu chiến
Hòa bình bốn chục năm, vẫn đang thời hậu chiến
Những vết thương băng bó mãi không lành
Lửa đã tắt, nhưng tro than chưa nguội
Đâu đây vẫn còn mùi khói của chiến tranh
Đứa trẻ bị bỏ rơi ngày bên kia di tản
Giờ tóc điểm hoa râm, ngơ ngác hỏi nguồn cơn
Phận lưu lạc lìa nơi chôn rau, cắt rốn
Nửa day dứt yêu thương, nửa âm ỉ oán hờn
Người lính trận đã dâng xong một thời trai trẻ
Buông súng ra, lóng ngóng chẳng tay nghề
Cuốc bẫm, cày sâu vẫn cháo rau đắp đổi
Phần còn lại cuối đời tập làm mướn, trông xe
Làng xóm cũ vẫn đói nghèo truyền kiếp
Chất độc da cam, đất cũng đổi hình hài
Dòng máu Việt ngàn năm trộn lẫn vào hoá chất
Suy kiệt hết giống nòi, dị dạng những bào thai
Bốn chục năm, dai dẳng thời hậu chiến
Cơn gió nghĩa trang lạnh thấu tận hồn người
Lẫn lộn đục trong, đảo điên thế sự
Thói vô cảm từng ngày lừng lững lên ngôi
Ôi hậu chiến mới thực là cuộc chiến
Giữa thế giới phẳng này, ta đang ở nơi đâu?
Rồi chẳng lẽ kiếp nợ nần đeo đẳng
Ta để lại gì cho con cháu mai sau?
Rồi chẳng lẽ bao cánh đồng mỡ màu suy kiệt
Ngọn gió Lào hun bạc phếch những cánh rừng
Khoáng sản, tài nguyên từng ngày khoét rỗng
Đêm rập rình mối hiểm họa Bắc phương?
Ôi lịch sử, tiền chiến hay hậu chiến
Bại hay thành, cũng hai chữ: Lòng Dân
Người lật thuyền, hay chèo thuyền, muôn thuở
Cũng là Dân trong bao cuộc chuyển vần.
_________________________________
Dẫu xa muôn dặm, vẫn tôi vua Hùng
Cái thời khai quốc, ban sơ
Nhà vua xuống ruộng cày bừa với dân
Ngồi cùng một chiếu, chung mâm
Đêm canh bếp lửa, uống chung rượu thề
Người dưới nói, kẻ trên nghe
Bình yên một cõi, bốn bề Phong Châu
Thương dân, quốc kế làm đầu
Hùng binh, thực túc, mưu sâu, kế bền
Bao đời trong ấm, ngoài yên
Chẳng nhường tấc đất ở miền biên cương
Khởi nguyên dòng dõi Việt Thường
Luỹ thành dựng nước, xưng vương một vùng
Truyền ngôi, thi lễ hội mừng
Thanh cao chỉ chọn bánh chưng, bánh dày
Trời là đây, đất là đây
Nước non tay cuốc, tay cày mà nên
Dạy rằng, chớ phụ tổ tiên
Đừng vì gấm vóc mà quên nghĩa người
Thân con lưu lạc cuối trời
Dẫu xa muôn dặm vẫn tôi vua Hùng.
_____________________________
Nơi từng là trận địa
Những chiến tích không mảy may dấu vết
Ụ pháo, hố bom, công sự, chiến hào
Đều biến mất.
Bên lô nền chia sẵn
Mấy toà nhà to vật vã, bọc tường cao
“Nhà của thằng thời thanh niên trốn lính
Bà bán nước chè, nhổ toẹt miếng trầu tươi
Ngao ngán kể.
Nó chui vào bệnh viện
Giả ốm đau, điên dại mấy năm trời!
Bom đạn hết, nó về làng béo tốt
Nhâng nháo giang hồ, ra Bắc vô Nam
Trùm vay lãi, đòi nợ thuê, chém mướn
Ai nhắc tên cũng táng đởm, kinh hồn
Ai cũng gọi nó là ông, là sếp
Mặc bảnh bao, xe bóng lộn lên đời
Nhà nườm nượp rước quan này, quan nọ
Em út về trổ hết ngón ăn chơi
Nó vơ hết đất đai vào dự án
Ruộng thổ cư bù giá rẻ như bèo
Cả di tích chiến tranh, san bằng hết
Lắm ô dù che chắn, đố ai kêu!
Tiền bạc nó giờ phải đo bằng khối
Trước mặt xưng ông, sau dân cứ gọi thằng
Chẳng ai dám nói nó ngày xưa trốn lính
Mấy năm trời chui bệnh viện trùm chăn!”
Trận địa cũ chẳng còn đâu dấu vết
Chỉ quán ăn, nhà chia khoảnh, phân nền
Xe san sát xếp hàng bên hàng nhậu
Quán đèn mờ hát xướng suốt thâu đêm
Những đồng đội, trời cho, còn sống sót
Trở về quê lại lam lũ trên đồng
Khi rỗi việc, thừ người châm điếu thuốc
Lại nhớ thời khói lửa, mắt rưng rưng…
_______________________________
CÓ MỘT HÀ NỘI TRONG TÔI
Mãi vẫn còn một Hà Nội trong tôi
Hơi ẩm của mùa xuân, heo may ngày tháng giá
Mùi bánh nóng ban mai, hương cốm xanh mới giã
Một bầu trời trong trẻo nắng mùa thu
Những cái tên tựa xóm mạc, làng nghề
Những hàng, chợ, cầu ô và bãi bến
Những mái phố thâm nghiêm và cổ kính
Con đường dài bóng rợp trải hàng cây
Hà Nội trong tôi, những đôi mắt biết cười
Những sóng tóc bồng bềnh như biết hát
Một dáng đi, tà áo dài tha thướt
Đêm xa nhà lại mơ thấy Hồ Gươm
Từ tiếng chào, từ ý tứ đoan trang
Nét thanh lịch, hào hoa người Hà Nội
Miếng quà ngon, thú ăn chơi, lễ hội
Phải chắt chiu, thanh lọc tự ngàn đời
Có gì lạ kỳ đâu, mà lại nhớ khôn nguôi
Tiếng tàu điện, hoa ngoại thành vào phố
Quán nhỏ đêm chong đèn, tiếng rao dài ngõ chợ
Tiếng xôn xao nước vỗ phía sông Hồng…
Tôi bỗng thương em tự xa ngái ngàn trùng
Bị mê hoặc bởi lòng người hoài cổ
Để chiều nay, trong quán hè phố nhỏ
Nghe mưa thu rơi lạnh bến Tây Hồ
_____________________________
Người ta kể, mới gặp nàng tuần trước
Vẫn dịu dàng và quyến rũ như xưa
Dù đuôi mắt vài nếp nhăn kín đáo
Và hình như đã hơi chút đẫy đà
Người ta kể, nàng hoàn toàn mãn nguyện
Chồng quan to, con du học bên Tây
Có biệt thự ngay giữa lòng phố cổ
Thuộc vào hàng quyền quý của thời nay
Nếu thuở ấy, đắm chìm vào sách vở
Nếu dại rồ, nàng gắn với đời tôi
Thì giờ đây, dưới mái nhà cấp bốn
Mắt trũng sâu, tóc tổ quạ rối bời
Chắc con cái chỉ học hành dang dở
Chạy xe ôm, hoặc phó mộc, phu hồ
Với ông chồng, lưng thưỡn dài, tốn vải
Vẫn chi hồ, giả dã, sống như mơ
Hãy cảm ơn cơn cuồng phong số phận
Đã hất nàng ra khỏi cuộc đời tôi.
Người ta kể, người xưa, nàng có hỏi
– Vẫn làm thơ, lay lắt sống xứ người.
______________________________
CHUYỆN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
CÙNG LÀNG
Trở về, làng đã khác xưa
Xóm thôn hiu hắt, đồng xơ xác đồng
Quang treo tuột cả gánh gồng
Nhà nông đánh mất nghề nông bao đời
Lặng nghe chỉ kể khúc nhôi
Một lời lại nghẹn một lời thương thân
Chồng đau dặt dẹo quanh năm
Mảnh bom mổ sót vẫn nằm trong vai
Con ôsin tận xứ Đài
Tiền không, tin nhắn một lời cũng không
Quê người biền biệt núi sông
Đêm nằm khắc khoải chỉ mong con về
Về đây, tơi lá, nón mê
Đội than, vác đá, phu xe cũng đành
Ruộng nương dự án đã giành
Trời thương, may túp lều tranh vẫn chừa
Làng quê bỏ hết cày bừa
Tha phương kiếm bát cơm thừa người ta
Vào thôn chỉ gặp cụ già
Chỉ khi Tết đến, người xa về làng
Giá như có mấy trăm ngàn
Dựng lều, mở lấy quán hàng.…Giá như…
Chị lau nước mắt, thẫn thờ
Má gầy hốc hác, da khô, võ vàng
Xa xa, phía cuối đường quan
Phú ông xe nối hàng đoàn chơi gôn.
_____________________________
Anh chỉ thẳng vào mặt tôi: đồ Bắc Việt
Tao với bây quyết không đội chung trời!
Và anh chửi bằng tiếng Anh rất tục
Cầm cốc rượu đầy, tu cạn một hơi
Đợi lúc qua đi cơn phấn khích
Rất tự tin, tôi bước tới bàn anh
Và gọi bồi: mang đến hai cốc rượu
Cho phép tôi bày tỏ chút ngọn cành
Đây là lần đầu tiên sang Mỹ
Trong túi tôi chỉ sách, bút và thơ
Tôi đã gặp nhiều Việt kiều, đúng thế
Cả những người từng ở phía bên kia
Đã tiếp chuyện với kẻ cầm súng bắn
Đôi bàn tay từng nhuốm máu đồng bào
Họ đều nói: đã thuộc về quá khứ
Hãy xích gần và bỏ quá cho nhau!
Anh biết đấy, những năm dài ly loạn
Gươm ngoại bang chia bờ cõi, chia miền
Triệu nấm mồ há hãy còn chưa đủ
Liệu có cần thêm lời thù hận, rủa nguyền?
Tôi đang nói cùng anh bằng tiếng Việt
Lấy quê hương ra bày giãi, thề bồi
Tôi chỉ muốn chìa bàn tay thân ái
Thì lẽ nào, anh lửa bỏng, dầu sôi?
Chắc lâu lắm, anh vẫn chưa trở lại
Gặp bà con, thăm cô bác, ruộng vườn
Và ở đó, nơi phụng thờ tiên tổ
Anh có về để thắp một nén hương?
Nếu làng xóm quay lưng, bạc đãi
Anh có quyền trút hận xuống đầu tôi!
Nhưng hãy tin, họ đón anh trở lại
Như đứa con xa biền biệt bấy năm trời!
Chúng ta hãy cùng nhau cạn chén
(Mặc dù tôi không uống rượu bao giờ)
Để ghi nhớ lần đầu tiên đến Mỹ
Mang theo mình chỉ sách, bút và thơ!
______________________________
Các người chiếm hàng ngàn mẫu đất
Vô số lâu đài, dinh thự, điền trang
Vũ hội tiệc tùng, liên miên yến ẩm
Tôi tớ, con sen phục dịch hàng đàn
Mọi điều luật là roi da, gươm súng
Đám nông nô, những kiếp thợ cày
Sống hay chết, do các người định đoạt
Đòi tự do là chịu kiếp tù đày
Các người hãy thử nhịn ăn một bữa
Hãy ở trong lều chịu rét một đêm
Hãy bỏ một ngày nai lưng làm việc
Và thử tra chân vào khóa gông xiềng
Thì các người mới hiểu thế nào là đói
Hiểu thế nào là rách rưới, lầm than
Hiểu thế nào là mồ hôi, nước mắt
Và lòng dân sôi tận đáy căm hờn!
Tất cả các người đều đáng đem xử bắn
Chẳng cần luật sư, chẳng cần đến quan tòa
Tội của các người sáng tỏ như toán học!
Tôi đọc những trang sách này trên chuyến tàu
từ Xanh-Peterbua tới Matxcơva
(*) Rađisep A.N.(1749-1802) Nhà văn quý tộc Nga nổi tiếng, là tác giả cuốn “Cuộc hành trình từ Xanh-Peterburg tới Matxcova”. Nghiêng mình xuống số phận những người lao động, ông lên án và phơi bày tội ác chế độ phong kiến nông nô Nga thối nát, kêu gọi thay đổi thể chế tàn bạo và lỗi thời này.
______________________________
“Tuần này có rảnh, lên chơi
Dân mình giờ đã thành người Thủ đô
Mai ngày xe máy, ôtô
Ra đường hết cảnh gối bò, vai mang
Rồi đây lối dọc, ngõ ngang
Đổi sang tên phố. Tên làng, quên đi!
Quên đi tay mốc, chân chì
Áo nâu, quần nhuộm thâm sì cũng quên.
Nhà ai, nhà nấy giăng đèn
Quên đi cái kiếp dân đen, quê mùa
Thành phường, thành quận Thủ đô
Đống Đa, Cầu Giấy, Bờ Hồ kém đâu…”
Theo đường lầy lội chân trâu
Đến thăm nhà bạn tít sâu trong làng
Mái tranh, vách nứa tuyền toàng
Cái xe cải tiến, chiếc bàn vecni
Gia tài mỗi chiếc tivi
Còn nguyên nhãn hiệu Fuji bên Tàu
Lúc đen trắng, lúc lóe màu
“Nếu không sóng yếu, chắc đầu ăngten”
Thôn làng chưa thấy ai quên
Vẫn là xóm cũ, vẫn tên muôn đời
Vẫn ao đầm, vẫn giếng khơi
Quần chằng, áo đụp vẫn phơi quanh rào
Chân chì, bước thấp, bước cao
Xếp bằng trải chiếu: “mày tao uống chè
Chờ trưa mẹ nó chợ về
Rau dưa, cua cá, cơm quê thôi mà”
Chuyện gần gợi lại chuyện xa
Cùng nhau mới đó, đã già đến nơi…
Mấy ông hàng xóm sang chơi
Dân Thủ đô đến thăm người Thủ đô!
_____________________________
Thật thanh thản khi giã từ trần thế
Trên tấm bia đá xám chỉ đôi dòng
“Một người bình thường, nơi đây an nghỉ
Chẳng nợ nần và thù oán cũng không”
Bạn thân yêu, xin bạn hãy đừng quên
Bất kỳ mọi nơi và trong mọi lúc
Khi sung mãn, khi hả hê quyền lực
Giữa giàu sang, mới thật khó làm người!
Mỗi chúng ta chỉ có một cuộc đời
Đừng đánh mất và chớ làm hoen ố
Trong khốn quẫn và đắng cay, đau khổ
Bước sa chân, mới thật khó làm người!
Cả khi mình đối diện với mình thôi
Giữa ranh giới đê hèn và cao thượng
Giữa trung thực và âm mưu bội phản
Giữa trắng, đen mới thật khó làm người!
Dù mất còn, dù lửa bỏng, dầu sôi
Hay vàng bạc rải đường giăng cạm bẫy
Lời thần chú bạn ơi, xin nhớ lấy:
Ở nơi đâu, cũng cần phải làm người!
(*) Vasili Shukshin ( 1929-1974) nhà văn, nhà điện ảnh Nga nổi tiếng.
________________________________
Trung Hoa
Mênh mông Động Đình Hồ
Hoàng Hà, Trường Giang bát ngát
Hùng vĩ Vạn lý Trường Thành
Di tích năm ngàn năm trác tuyệt
Trung Hoa
Bao triều vương tiếp nối những vương triều
Những vua chúa lại tiếp đời hoàng đế
Thăng phù tôn vinh, nổi chìm truất phế
Xương chất thành non
Máu tuôn thành bể
Mưu toan núp bóng cung đình
Vạc dầu sôi đặt giữa sân rồng
Giết bách tính tranh giành ngôi thứ
Một giấc mộng Trung Nguyên
Mạng muôn dân sá kể!
Trung Hoa
Thâm sâu điển tích
Bao hiền triết thánh nhân
Bao bậc nho gia cao minh trí lự
Ngòi bút lông thu phục hết quân thần
Nặng lòng mối dân tình, xã tắc
Hoặc xa chốn phàm trần, giữ mình thanh bạch
Hoặc bỏ đỉnh chung treo mũ áo từ quan
Trung Hoa
Chập chờn tấm màn bí ẩn
Con mắt mỏng như dao
Giấu bao điều hiểm độc
Rũ áo thụng che dã tâm móng vuốt
Tay vẫn lần tràng hạt tụng nam mô
Chiến hữu nay, mai lại đã kẻ thù
Thà phụ người, giết nhầm hơn bỏ sót!
Trung Hoa
Chặt đầu đặt lên mâm tiệc
Hết giao tranh, xong binh đao trận mạc
Thái bình rồi, hãm hại hết ân nhân
Mê muội hôn quân
Đắm chìm trong tửu sắc
Lầu trăm trượng để chiều lòng con hát
Cấm thành đầy bọn vô lại, hoạn quan
Trung Hoa
Thích tọa san quan hổ đấu
Thích xưng đế, xưng vương
Thích có nhiều chư hầu cống nạp
Thèm tài nguyên, sản vật
Mở rộng giang san
Khởi binh chinh phạt
Thúc quân phía Bắc
Hạ chiến Nam man
Thu phục Tây giang
Tràn qua Nam Hải…
Những trang sách say sưa khi mười tuổi
Lúc này đây, đọc lại bỗng kinh hoàng
Tam quốc chí, Đông chu, Thủy hử
Kiệt Trụ, Tần Ngô, Hán Sở tranh hùng…
Năm ngàn năm, liệu bây giờ có khác
Cổ thư còn soi tỏ được hay chăng?
____________________________
Cá chết nổi trắng đồng
Héo vàng chân ruộng lúa
Đường thôn vắng bóng người
Gió rít gào xé lụa
Làng bản tít vùng cao
Tuyết phủ dày sương muối
Lối dốc đá băng trơn
Hơi lạnh luồn hốc núi
Đám trai trẻ Thủ đô
Ngược rừng đi xem tuyết
Thực phẩm chất đầy xe
Vui như là hội Tết
Phú gia vào cao lâu
Ghế bành lông ấm áp
Rượu mạnh, món ăn Âu
Chân dài lơi lả hát
Bà lão quê ăn mày
Khoác chăn rách, bị gậy
Khô héo bàn chân trần
Mắt mờ, run lẩy bẩy
Còn rét chừng tuần nữa
Học trò không đến trường
Có mấy người chết lạnh
Nằm đắp chiếu ven đường…
_______________________
Thư em viết cho tôi
Nét mực còn tươi rói:
“Em muốn ta gặp nhau
Mong anh đừng từ chối”
Làm sao tôi đủ sức
Mang nổi hạnh phúc này:
“Em hẹn anh tối nay
Cổng vườn hoa, em đợi”
Không thể nào tin nổi
Dù thư vẫn trên bàn:
“Đi đâu là tùy anh
Thiên đường hay trần thế”
Tôi bỗng như đứa trẻ
Miệng huýt sáo vang lừng
Trần thế là thiên đường
Là nơi em chờ đợi!
Suốt buổi chiều khấp khởi
Chốc chốc lại xem giờ
Bỗng thấy trên tấm lịch:
Ngày mồng Một tháng Tư!
______________________
Đêm đêm nằm lo Tết đến
Ổ rơm tiết lạnh Đại hàn
Thông thốc gió lùa cửa liếp
Ngực gầy kéo giọng ho khan
Trông vào mấy sào ruộng khoán
Đang mùa hanh giá hạn khô
Rau lang sâu rầy ăn hại
Lá trơ, cọng cũng chẳng chừa
Đàn lợn tai xanh chôn hết
Gốc lời, vốn liếng đi tong
Bầy gà đang nuôi cũng bán
Nhà hàng mua rẻ như không
Con cái đứa đang cuối cấp
Đứa không tìm được việc làm
Đứa lớn lên rừng với bố
Nhập đoàn phu mỏ, đào than
Tiền đâu sắm sanh lễ cúng?
Tiền đâu con nộp học thêm?
Tiền đâu gối mùa thóc giống?
Tiền đâu áo xống, thuốc men?
Trăm thứ đổ dồn vào Tết
Gia tài: bồ thóc trơ hom
Mai ra chợ người tìm việc
Kiếm thêm bát cháo, bát cơm!
Suốt năm lo mười hai tháng
Tết về chỉ có lo thêm
Lạnh quá nằm không ngủ nổi
Chỉ mong sắm được chiếc mền…
___________________________
Mưa như rây bột trên sông
Sương chiều nhuộm xám cánh đồng lúa non
Khoai lang bén rễ trên cồn
Sắn vừa nhú ngọn, bầu còn đơm hoa
Phất phơ nụ cải ngồng già
Bãi bồi con nước thoáng pha sắc vàng
Cành tre rũ ướt cổng làng
Gió mùa lạnh buốt lay hàng xoan thưa
Giêng hai trời đất chuyển mùa
Rễ chưa thành củ, quả chưa thành hình
Mưa xuân rắc bụi mái đình
Nghe hơi giáp hạt luồn quanh xóm nghèo
________________________________
Về quê được mấy hôm
Mẹ giục vào thăm chị
Nấn ná đợi ngày rằm
Đến lễ chùa một thể
Chùa ở tít rừng xa
Men theo bờ suối cạn
Lối nhỏ xuyên đồi sim
Khách thập phương thưa vắng
Mái ngói cũ, tường rêu
Cổng tam quan bỏ ngỏ
Giữa một vùng thâm u
Nghe đều đều tiếng mõ
Mẹ dặn đi, dặn lại
Dù là chị, là em
Đã xuất gia, xuống tóc
Phải gọi Thầy, đừng quên!
Mười ba năm nhập ngũ
Mười hai năm Trường Sơn
Phục viên về xóm cũ
Mang theo sốt rét rừng
Môi thâm, da đen xạm
Tháng vào viện mấy lần
Chẳng khác gì bà lão
Mùa hạ vẫn trùm chăn
Em út nên gia thất
Mẹ già yếu, cao niên
Chị tìm lên chùa lánh
Nương thân chốn cửa thiền
Sư già chăm thuốc lá
Tĩnh tâm cùng núi non
Xa bụi đời trần tục
Sốt rét dần cắt cơn
Sớm khuya lo kinh kệ
Khói hương quên tháng ngày
Áo nâu sồng, guốc mộc
Bè bạn với cỏ cây…
Trong lòng tôi là chị
Trước mắt tôi, sư Thầy
Chắp hai tay vái lạy
Mà nghẹn ngào: em đây!
____________________
Tay đút túi, lang thang dọc vỉa hè
Phố vắng lặng, lòng vẩn vơ, trống trải
Hồn Mỵ Châu, gió vô tình thổi mãi
Lá vàng rơi như lông ngỗng ven đường
Giá có ai, nói với tôi rằng
Ở phía trước có một bàn tay vẫy
Ở phía trước có mắt ai ngóng đợi
Một làn môi thầm nhắc gọi tên mình!
Giá có ai nói với tôi rằng
Sau sa mạc là địa đàng, đất hứa
Sau cát bỏng và ngút ngàn cháy lửa
Là vườn cây, là mái lá yên bình!
Giá có ai nói với tôi rằng
Với cuộc sống chẳng bao giờ trễ muộn
Hãy đi tới, hãy dang tay đón nhận
Những món quà số phận sẽ ban cho
Tôi sẽ lên đường, ngược cơn gió mùa thu
Để lại đằng sau nỗi lòng phố vắng
Niềm khắc khoải, những giấc mơ vô vọng
Ngựa chồn chân máng cỏ, bốn bức tường
Tay đút túi vẩn vơ, trống trải khôn cùng
Lá vàng rải dọc đường như lông ngỗng
Phố vắng lặng, chỉ trời xa trống rỗng
Làm thế nào đi hết được mùa thu.