Thanh Mai
(Cảm nghĩ từ bài thơ “Một ngày lên Hồ Thiên” của Vũ Mai Phong)
Hồ Thiên là một trong ba đỉnh chùa nổi tiếng nhất trên dãy núi Yên Tử, là điểm nối giữa hai điểm Ngọa Vân – Yên Tử. Giữa trùng điệp núi non Đông Triều, chùa Hồ Thiên sừng sững trên đỉnh cao mây phủ, như một viên ngọc linh thiêng. Cùng với am Ngọa Vân và Yên Tử, Hồ Thiên tạo nên một trục thiền tự huyền thoại, nơi in dấu chân Phật Hoàng Trần Nhân Tông trên hành trình tìm về chân lý. Nơi đây, hơn bảy thế kỷ trước, sau khi hoàn thành sứ mệnh một bậc đế vương, Phật Hoàng Trần Nhân Tông, vị minh quân hai lần phá tan quân Nguyên Mông đã chuyển giao trọn vẹn quyền lực, buông bỏ ngai vàng, chọn làm chốn tu hành, hòa mình vào tiếng mõ sớm khuya, gió ngàn và suối reo để rồi dần thấu triệt lẽ vô thường, chứng ngộ chân lý tối thượng.
Vũ Mai Phong viết bài thơ “Một ngày lên Hồ Thiên” đúng ngày mùng 8 tháng Chạp năm 2023, đúng kỷ niệm ngày thái tử Tất Đạt Đa chứng ngộ chân lý tối thượng, thànhđạo. Trong cảm thức của một ngày đầy ý nghĩa như vậy, lại trước một không gian linh thiêng Hồ Thiên, Vũ Mai Phong dường như xuất thần hơn, hưởng thụ quả vị trí huệ hơn khi xuất khẩu thành thơ, đáng nói lại là một bài thơ hay, không chỉ tái hiện vẻ đẹp thiền môn mà còn khắc họa rõ nét tinh thần nhập thế của Thiền phái Trúc Lâm và sự xuất xử vĩ đại của Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Bài thơ mở đầu với không gian non thiêng Yên Tử:
Nghe ai hát trên đường lên núi Phật
Rừng trúc cùng tán thán du dương
Bồng bềnh từng đợt mây thơm tỏa
Vọng nhịp mõ đều trên đỉnh Hồ Thiên
Trên “đường lên núi Phật”, tác giả dẫn lối người đọc vào một thế giới vừa thực vừa ảo, nơi núi non, rừng trúc, mây trời đều như đồng vọng cùng tiếng mõ thiền. Nét thực chính là hàng loạt âm thanh xao động của cõi thế với tiếng hát, tiếng người lên núi, hành hương về chốn Tổ Thiền, tiếng va chạm của rừng trúc như đàn, tiếng sáo du dương, rồi tiếng mõ vọng đều trên đỉnh chùa… Nhưng cũng từ những chi tiết rất thực, rất đời thường đó đã được ảo hóa, trở nên lung linh, huyền diệu hơn trên hành trình đến đất Phật. Những lao xao nói cười khi về chốn thiêng đã đẹp đẽ hóa thành tiếng hát; những va chạm lá cành của rừng trúc đã thành lời “tán thán”, tụng ca du dương, réo rắt. Và “mây” cũng được tịnh hóa, thuần khiết, thơm tỏa, như thể vẫn còn nguyên hương thơm, âm nhạc từ khắp từng trời Chư Thiên cúng dàng Phật Hoàng, bậc chân tu giác ngộ.
Hình ảnh “rừng trúc” còn gợi nhắc đặc biệt, trúc không chỉ là biểu tượng của Thiền phái Trúc Lâm mà còn là biểu tượng của chính Ngài – người quân tử mang cốt cách kiên cường, ngay thẳng, dù ở ngôi cửu trùng hay ở chốn am mây vẫn giữ nguyên tinh thần đó. “Nhịp mõ đều” lại nhắc nhớ ta về sự kiên định, an nhiên của Ngài, khi vững vàng điều binh hùng tốt mạnh đối phó với khí thế bức người của vó ngựa Nguyên Mông, hay lúc nhẹ nhàng giũ bỏ long bào, rời xa quyền lực đế vương, ẩn thân nơi thảo am thanh tịnh.
Từ cảnh sắc thiên nhiên, bài thơ dần đi sâu vào hành trình tu tập của bậc minh quân:
Trước hừng đông vàng rực chân trời
Hỏi bao tinh tú còn lấp lánh
Biết nơi đâu con đường thành đạo?
Ngọn đuốc tàn, tóc đẫm sương mai
Như Đức Phật Thích Ca từ bỏ cung vàng điện ngọc để tìm đạo, Phật Hoàng Trần Nhân Tông cũng đã từ bỏ vinh hoa quyền quý để lên núi Yên Tử. “Hừng đông” có thể hiểu là ánh sáng của trí huệ, nhưng để đạt đến cảnh giới đó, mấy ai thấu triệt người hành đạo phải trải qua bao khổ hạnh, cô đơn, như chính hình ảnh “ngọn đuốc tàn” và “tóc đẫm sương mai”! Đức Thế Tôn dạy “hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”, vậy tác giả có dụng ý gì khi sử dụng hình ảnh “ngọn đuốc tàn” khi “tóc đẫm sương mai” hay chỉ là ngọn đuốc soi đường trong đêm? “Biết nơi đâu con đường thành đạo?”, một câu hỏi băn khoăn của người đang tìm đường hay đang theo bước chân các vì tinh tú lấp lánh đã thành đạo tìm kiếm lời đáp cho ngàn năm, vạn năm, nhưng cũng có thể chính là nỗi băn khoăn của Thích Ca Như Lai, của Phật Hoàng thuở ấy. Giữa nhân gian bộn bề, đâu là con đường để mang lại bình an đích thực? Như bao đấng Chí Tôn cao quý khác, cả hai Ngài đều đã từng chọn thực hành khổ hạnh đầu đà giữa thâm sơn cùng cốc đến mức tàn hơi, kiệt sức để tìm đường thấu triệt chân lý. Nhưng nếu cứ bám chấp vào khổ hạnh, đày ải xác thân trần thế này, như “Ngọn đuốc tàn, tóc đẫm sương mai” cũng nào có thể “thành đạo”. Lẽ cốt yếu các ngài nhận ra là con đường trung đạo, là hòa mình với tự nhiên, lấy từ bi, trí huệ để độ sinh. Nếu nhìn vào cuộc đời của Trần Nhân Tông, có thể thấy, Ngài đã trải qua cả hai con đường: con đường của một bậc quân vương kiệt xuất và con đường của một bậc chân tu đại giác. Hai lần lãnh đạo quân dân kháng chiến chống Nguyên Mông, đem lại hòa bình cho Đại Việt, Ngài đã hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh của một vị vua. Thế nhưng, khi đất nước thái bình, thay vì hưởng vinh hoa quyền quý, Ngài chọn con đường tu tập, xem ngai vàng như một thứ có thể buông bỏ nhẹ nhàng.
Khổ thơ thứ ba tiếp tục khai thác hình ảnh thiền môn với vẻ đẹp trang nghiêm:
Cánh hoa sen vẫn vẹn hình hài
Ngay ngắn dưới hàng chân cột đá
Tam bảo hiện lên trong hư ảo
Bình minh nghiêng tháp bảy tầng
Vẫn tuân thủ quy tắc vừa tả thực, vừa ảo, ta cùng nhân vật trữ tình của bài thơ bước tiếp trên đường lên Hồ Thiên. Nhưng than ôi, còn đâu tráng lệ năm nào! Trải qua hàng trăm năm thăng trầm, mưa nắng, trước mắt ta một cảnh tượng xót xa: ngôi chùa xưa đã đổ nát đi rồi, dấu xưa chỉ còn nhận diện qua hàng chân cột đá với họa tiết hoa sen. Thế nhưng đừng vội u hoài, sắc tức là không, không tức là sắc, Phật ở tại tâm, giữa đất thiêng này, tâm linh chợt tương thông, để ta rưng rưng mỹ cảm, ngôi Tam Bảo vẫn ở đây, hòa giữa mây ngàn, gió thổi và nắng chiếu mênh mang quanh tháp bảy tầng!

Hoa sen là biểu tượng mỹ học của nhà Phật, mang tính triết lí rất cao, cả về không gian và thời gian, có quá khứ, hiện tại và tương lai, để nói lên sự tồn tại của kiếp luân hồi, sự hoàn thiện của bản thân con người. “Cánh hoa sen vẫn vẹn hình hài” câu thơ tả thực chân cột đá nhưng cũng là sự khẳng định dù thời gian có trôi qua, chân lý Phật pháp luôn trường tồn, công trạng hiển hách và oai đức, uy linh của Phật Hoàng luôn còn mãi. Câu thơ tiếp theo đa nghĩa và đầy tính họa. Giữa đỉnh non thiêng mây trời hòa một, mọi thứ dường như ảo diệu hơn, Tam Bảo hiện hữu đó mà như “hư vô”, khó chạm, dường như nghe thấy cả nỗi bâng khuâng, tiếng thở thật nhẹ, thật khẽ của tác giả, hay của lòng ta về sự mong manh của những giá trị thiêng liêng trước biến động thời gian.

Câu thơ cuối trong khổ thơ thật đẹp “Bình minh nghiêng tháp bảy tầng”. Trong Phật giáo, số bảy mang ý nghĩa đặc biệt, tượng trưng cho bảy bước đi đầu tiên của Đức Phật sau khi đản sinh, mỗi bước đều nở ra một đóa sen, thể hiện sự siêu việt khỏi vòng luân hồi. Tháp bảy tầng trên đỉnh Hồ Thiên cũng mang ý nghĩa đó, nó biểu trưng cho bảy giai đoạn trong con đường tu tập để đạt đến giác ngộ, phản ánh quá trình hành thiền của Phật Hoàng Trần Nhân Tông[1]. Giữa trời cao, tháp bảy tầng như một ngọn đuốc trí tuệ dẫn đường cho hậu thế. Dưới ánh bình minh, tháp như hòa vào mây trời, vừa hư vừa thực, gợi lên sự vĩnh hằng của chánh pháp.
Ánh sáng chính pháp đó dù thời gian có gội phủ bao lớp, dù lớp vật chất chùa chiền, bia đá có bị bào mòn, đổ nát, song vẫn đủ hào quang lấp lánh để nhận diện những vô minh, nhốn nháo thời mạt pháp.
Chúng sinh huyên náo cảnh mê lầm
Mạt pháp, suy vi chốn nhân gian
Ở đây từng sáng miền trí huệ
Bây giờ u tịch ngổn ngang
Phải chăng khi viết những dòng này, Vũ Mai Phong đang nghĩ đến bao điều khiến anh và không ít người có chính kiến về Phật pháp, đạo pháp phải đau đáu khi chứng kiến những câu chuyện thời mạt pháp diễn ra hàng ngày. Giữa thánh địa Phật tích rồi, mà sao vẫn len lén thở dài hòng nén lại nỗi muộn phiền khởi lên từ tâm – nơi đây cũng từng sáng miền trí huệ, từng là trung tâm tu hành, truyền giáo rực rỡ mà sao bây giờ chỉ còn ngổn ngang, u tịch nhường này? Tính đa nghĩa, ẩn dụ của câu thơ đâu chỉ gợi nhắc đến sự thịnh suy của Phật pháp theo dòng lịch sử mà dường như còn tái hiện cả nỗi lòng của Phật Hoàng khi Ngài chọn con đường nhập thế, đem đạo vào đời nhưng vẫn đau đáu trước sự vô thường của nhân gian?
Trong những khổ thơ tiếp theo, thiên nhiên dường như cũng đồng cảm với con đường tu hành của bậc chân tu:
Róc rách từ xa Suối Nước Vàng
Bóng người thiền tọa Ngọa Vân am
Cỏ cây dường ngấm lời kinh kệ
Nên lắng dịu hơn mướt xanh hơn
Ngọa Vân chính là nơi Phật Hoàng nhập niết bàn, nơi những lời kinh kệ của Ngài dường như đã thấm vào cỏ cây, nước suối. Thiên nhiên trong bài thơ không chỉ đơn thuần là cảnh vật mà còn như một chứng nhân lịch sử, như đang lưu giữ hơi thở của bậc giác ngộ. An lạc thay, bước chân đưa ta thoát xa những huyên náo, bụi bặm trần thế, về với không gian trăm năm, ngàn năm chẳng đổi thay, cứ mặc nhiên xanh như cỏ, trong mát như suối đầu nguồn bởi thấm đậm kinh kệ, Phật tính. Và như thế, dường như chúng ta về gần hơn với Tổ, với Phật!
Khổ hạnh đường tu, nơi thâm sơn
Quanh năm hoa chuối, măng rừng tươi
Một mai xuống núi theo nhập thế
Chốn tổ huyền linh liệu có còn…?
Hình ảnh hoa chuối, măng rừng gợi lên cuộc sống thanh đạm mà Phật Hoàng đã chọn sau khi từ bỏ ngai vàng. Nhưng câu hỏi “Chốn tổ huyền linh liệu có còn…?” lại khiến người đọc bâng khuâng. Tác giả Vũ Mai Phong từng chia sẻ cảm xúc khiến anh viết những dòng thơ này rằng khi anh lên núi, đã đủ duyên hội ngộ và trò chuyện với sư Trí Thông. Ngài cũng tu khổ hạnh, chỉ ăn măng rừng tươi, hoa chuối, thoảng hoặc có người mang chút gạo và rau lên cho sư. Nhân gian đầy toan tính, anh cảm thấy lòng nhiều bất an. Như có hiệu ứng lây lan, lòng ta cũng thắc thỏm bao điều, liệu sau này vị sư kia xuống núi, nhập thế về với đời, thì ai sẽ là người được truyền đăng, trao đèn tiếp lửa, giữ giới khổ hạnh nghiêm cẩn, duy trì hương khói nơi đây? Chốn huyền linh, hoang sơ này liệu có còn vẹn nguyên hay sẽ bị bê tông hóa? Biết bao vấn đề cứ đau đáu chưa lời giải đáp chỉ sau một câu hỏi bỏ ngỏ ở cuối khổ thơ làm tăng thêm tính triết lý và suy tư.

Sau tất cả, bài thơ kết thúc trong một trạng thái tự do tuyệt đối, giải thoát và an nhiên bằng sự hòa nhập giữa đạo và đời:
Thế giới dưới kia đạo là đời
Thân phàm vẫn luyến cuốc rong chơi
Ta vút mơ mình là cơn gió
Lồng lộng hồn nhiên với mây trời.
Có suy tư, có trốn tránh bao nhiêu chăng nữa thì cuối cùng vẫn phải trở về thực tại, để nhớ, biết rằng “Thế giới dưới kia đạo là đời”. Tác giả không còn đứng từ xa quan sát mà chấp nhận thực tại: “đạo là đời”. Đã đến với cuộc đời này trong xác thân phàm, hẳn nhiên còn “luyến” nhớ, tiếc, thích rong chơi lắm. Nhưng cũng thật rõ ràng, đời người như một “cuốc rong chơi”, có chi mà tham ái! Thú vị là, anh nhận ra thật rõ ràng, không ràng buộc tham, sân, si, thì đời người khác gì cơn gió tự do, giải thoát. Mà cảnh giới cao nhất của Phật giáo chẳng phải là giải thoát đó sao! Trong một sát na trên đầu là Tam Bảo linh thiêng, dưới chân là cỏ cây ngấm lời kinh kệ, Vũ Mai Phong hay cả chúng ta đều như được chứng tâm, độ nhãn, vén bức mây mờ vô minh để thấu rằng: chỉ khi nào buông bỏ mọi chấp niệm, hòa vào tự nhiên, không chấp đâu là đạo, đâu là đời, ta sẽ tìm thấy sự an nhiên trong chính mình.

Đến đây, ta mới hiểu hơn thế nào là sự giải thoát hoàn toàn của người đã hiểu rõ lẽ vô thường, đã không còn vướng bận bất cứ điều gì. Nhìn vào cuộc đời của Phật Hoàng, có thể thấy Ngài đã đi hết một hành trình vĩ đại: từ một vị vua đánh đông dẹp bắc, đến một bậc chân tu vững vàng trong trí huệ, để cuối cùng nhập Niết Bàn trong sự an nhiên tuyệt đối tại Ngọa Vân am. Tinh thần thiền tông của Phật Hoàng cũng chính là tinh thần tự do, buông bỏ mọi ràng buộc để hòa mình vào vũ trụ bao la; sống giữa thế gian nhưng vẫn giữ được tâm thanh tịnh, đó mới là con đường giác ngộ đích thực. “Cơn gió” ở đây không chỉ là sự nhẹ nhàng mà còn là sự tự tại, một trạng thái tâm thức không còn vướng bận bởi danh lợi hay trần tục. Chữ “vút” như một thanh âm bất ngờ, nhanh, dứt khoát, hòa cùng cái rộng lớn, khoáng đạt “lồng lộng hồn nhiên” khép lại tư tưởng tự do hòa mình vào vũ trụ, thiên nhiên khiến bài thơ khép lại trong nhựa sống tràn trề, niềm tin bất tận vào sự vĩnh hằng của tự tính chân như, của Phật pháp giữa thế gian!
Bằng bút pháp hàm súc, giàu chất thiền, bài thơ “Một ngày lên Hồ Thiên” vừa kể lại hành trình một ngày lên Hồ Thiên, vừa khéo léo kể câu chuyện đạo và đời, về tinh thần nhập thế và sự giải thoát. Bài thơ là một bản hòa ca giữa con người, vũ trụ và chân lý, là sự tri ân với bậc thiền sư vĩ đại Phật Hoàng – một bậc quân vương trên con đường thành đạo. Trong dòng chảy thời gian, những giá trị mà Phật Hoàng để lại vẫn vẹn nguyên như đóa sen nở giữa Hồ Thiên, như tiếng mõ còn vọng mãi trên Ngọa Vân am.
[1] Xả bỏ phàm tâm – Xuất gia tìm đạo; Thanh lọc thân tâm – Khổ hạnh tại Yên Tử; Thấu triệt vô thường – Giác ngộ chân lý; Thành lập Thiền phái Trúc Lâm – Nhập thế hành đạo; Hoằng dương Phật pháp – Giáo hóa chúng sinh; Hóa duyên viên mãn – An nhiên nhập diệt; Di sản bất diệt – Ánh sáng Trúc Lâm chiếu rọi muôn đời.