Lặng im quá khứ trổ hoa
Tôi đi khảo sát dọc làng Pua. Trời về đêm, sương muối lành lạnh thấm ướt làn da. Giữa những mái nhà sàn nằm san sát nép mình lưng đồi, căn nhà tranh cuối làng hiện ra thật cô độc, lạc lõng…
Mấy chục năm qua, làng Pua không còn nét nguyên sơ như thời chiến tranh ăn rừng, ở bụi. Xa xa, núi Lang không còn những vạt rừng thông xanh mướt gió reo vi vu. Năm tháng mây bay, bão giông vần vũ, mưa cứ rền rĩ rửa trôi mấy vạt đồi dưới chân núi, sấm giật mình, chớp buông cơn hờn giận. Nhưng sau bao nhiêu xoay chuyển đất trời, căn nhà nhỏ ấy vẫn kiên cường bám trụ. Dường như thời gian chẳng đủ sức xóa nhòa hết thảy mọi dấu tích. Đâu đó, người ta vẫn thấy những ẩn ức đau thương còn sót lại. Chỉ có điều khi được nhắc đến, đa số họ luôn tìm cách lảng tránh, giống bữa trước tôi chỉ tay hướng ngôi nhà, hỏi đứa trẻ chạy chơi bên đường:
– Cháu biết lai lịch của nó không?
Thằng nhóc hơi do dự, mắt dáo dác nhìn quanh, phải tới lúc tôi dúi cái bánh ngọt vào tay, nó mới thắc mắc rụt rè:
– Chú hỏi làm gì ạ?
– Thế cháu biết không?
– Không được lên tiếng… không được lên tiếng…
Thằng nhóc thì thầm khe khẽ rồi vụt chạy khiến tôi ngơ ngẩn. Tại sao lại thế nhỉ? Ngôi nhà ấy đang giấu giếm điều gì mà sao ai cũng e dè?
*
**
Tôi về đây cũng vì đận này ngôi nhà tranh ở làng Pua bỗng nhiên nổi rần rần trên mạng, nhất là trong cộng đồng của những người ưa thích tìm hiểu các sự kiện linh dị thần quái. Họ đồn rằng chỗ đó có ma, rất nhiều ma. Chả thế không dưng mấy đoàn thám hiểm cứ nối nhau mất tích. Cách đây vài tháng, một nhóm sinh viên đến để phát sóng trực tiếp vào ban đêm. Dẫu dân làng khuyên bảo hết lời nhưng họ vẫn bỏ ngoài tai, thậm chí vài người còn cười cợt. Thế mà sáng hôm sau, ai cũng tái mét mặt mày, tóc tai rũ rượi. Mắt họ hằn những đường tơ máu, vừa chạy, vừa ú ớ khiếp sợ.
Hỏi họ có nhớ gì không thì đầu lắc nguây nguẩy. Live stream tối qua đang diễn ra sóng chợt chập chờn rồi mất hẳn. Hình ảnh cuối cùng lưu lại là những vệt nhiễu, kèm những tràng hú hét thảm thiết kéo vào vô tận. Điều ấy kích thích sự tò mò của quần chúng đang xem. Ngày càng nhiều người tới khám phá, cũng càng nhiều chuyện ly kỳ tái hiện. Cứ thế, chẳng biết từ bao giờ làng Pua lại trở thành điểm đen trên bản đồ du lịch tâm linh mạo hiểm của tỉnh…
Phải nói những tư liệu về làng Pua khá ít ỏi. Xuống thư viện thị trấn tìm mờ cả mắt cũng chỉ thấy mấy dòng ngắn ngủi. Làng Pua ngày xưa từng có thời là vùng địch tạm chiếm. Trước Cách mạng Tháng Tám, Nhật đảo chính Pháp rồi đóng quân ở khắp nơi, chúng bắt đàn bà con gái, truy lùng những người yêu nước. Đuổi được Nhật thì Pháp quay lại…
Tôi thở dài khép lại trang sách. Nhớ hôm họp tòa soạn, anh trưởng ban chợt nảy ra ý tưởng làm phóng sự điều tra giải mã sự kiện huyền bí trên mạng, hỏi có ai đi không thì cả phòng đều chối đây đẩy. Người bận bài chuyên đề. Người vướng phóng sự dài kỳ đang dang dở. Không ai tự nguyện nhận việc này cho tới lúc anh điểm tên nhắc khéo hù tôi giật bắn mình, tính kiếm cớ ở nhà mà thoạt nhiên đầu óc chợt rỗng tuếch.
Khi tôi hồi thần thì cuộc họp đã kết thúc. Mấy anh chị đồng nghiệp thở phào nhẹ nhõm. Họ cứ nhìn tôi bằng ánh mắt thương hại, lấp lửng nửa muốn nói lại thôi. Riêng anh bạn thân đến gần, khoác vai trách móc nhẹ nhàng:
– Mày dại thế.
– Biết sao giờ?
Anh bạn im lặng. Tôi lên mạng tra địa chỉ cần đến. Công cuộc chuẩn bị cho chuyến đi được chuẩn bị kỹ càng. Tôi đi chùa xin một lá bùa bình an, sắp xếp chút quần áo, đồ dùng cá nhân. Mọi thứ gần như đã xong xuôi, chỉ việc tìm tư liệu tính đến thời điểm này vẫn dậm chân tại chỗ. Tay tôi lướt nhanh theo từng kệ sách, hết biên niên sử lại sang một ít sách văn hóa, địa lý hay văn học dân gian địa phương. Bất ngờ, ánh mắt tôi bị thu hút bởi những dòng hồi ký chiến trường:
“Ngày… tháng… năm…
Địch càn quét ráo riết. Chúng đem lô cốt trồng khắp xóm. Người làng An, làng Thượng đã bị chúng bắt bớ, tù đày. Anh Toản, anh Tân chết cả rồi. Máu chảy đỏ khắp nơi…”
“Ngày… tháng… năm…
Mình thấy lũ khốn đó đang gầm rú. Chúng mang súng đi bắn trẻ con. Thằng Ninh, con Hường chết cả rồi. Tay mình vun nấm mộ. Máu thấm đỏ lênh láng…”
“Ngày… tháng… năm…
Mình núp trong bồ gạo. Thằng Việt gian xuyên mũi dao trúng vai. Đau quá. Xót quá. Máu hình như đã chảy. Hạt gạo bết bát dính vào da thịt. Chúng bắt chị cả đi rồi. Chúng giết cả thằng nhỏ. Mình không làm gì được… không làm gì được…”
Những hồi ức ngập ngừng khiến tôi sững người chết lặng. Lòng bồi hồi bao cảm xúc xốn xang. Làng An, làng Thượng toàn mấy địa danh ngay sát làng Pua. Tôi nhìn thời gian ghi chép. Lạ thật! Hồi ấy đã gần cuối kháng chiến chống Pháp, nghe nói một số nơi đã thuộc về chính quyền cách mạng. Giặc rút về cố thủ vùng lòng chảo Điện Biên Phủ. Sao địch vẫn càn quét? Những bản làng vẫn rơi vào tầm ngắm.
“Ngày… tháng… năm…
Tối qua giặc lại tràn vào làng, ngay lúc nhà bác Liên đang ăn cơm. Không ai kịp chạy trốn. Căn nhà bị chúng bắn phá tan tác, mìn nổ tơi bời. Mình tìm mãi mà chẳng tìm được gì, chỉ còn mỗi hố sâu…”
“Ngày… tháng… năm…
Ngọc chết rồi! Đồng đội nói em trúng đạn khi đánh du kích, vết thương hiểm nên mất máu quá nhiều. Mình nhớ Ngọc có nụ cười thật đẹp. Em hẹn người yêu chờ ngày đất nước hòa bình, hai đứa sẽ cùng về quê ra mắt bố mẹ. Nhưng bây giờ…”
Mắt tôi mờ dần. Chút gì ấy dâng lên mí mắt rồi nghẹn xuống từng hồi nức nở. Thước phim ký ức chậm chạp chiếu nốt những hình ảnh cuối cùng.
“Ngày… tháng… năm…
Súng vẫn rền vang khắp chốn.Nghe bảo giặc đang càn vào làng. Chúng đem quân vây kín xung quanh tính cắn trả trận cuối. Chiến dịch Điện Biên Phủ đang bước vào hồi kết. Mình phải tìm được đường dẫn bọn trẻ và mọi người lên chiến khu an toàn. Dân làng đang đợi mình. Đồng đội đang đợi mình. Nhất định phải tìm được đường ra… nhất định…”
Tôi khép lại cuốn nhật ký. Người chiến sĩ ấy có thành công không? Tôi lật tung tất cả những tư liệu cũng không thấy kết quả rõ ràng. Mấy chục năm làng Pua còn đó nhưng ai mà biết chuyện gì đã xảy ra. Tôi ngồi ngẩn người trong thư viện ngắm mây trôi ngoài cửa sổ. Nắng vàng như rót mật. Trời xanh rộng thênh thang. Phía xa kia, làng Pua nằm dưới chân núi Lang hùng vĩ, khói lam chiều bảng lảng trông mới thật yên bình làm sao…
*
**
Mẹ không muốn tôi tới làng Pua. Hay đúng hơn, những gì liên quan tới chiến tranh bà đều chẳng muốn nhắc. Và chiến tranh bắt đầu hiện hình từ chính bố, người thương binh chống Pháp trở về với đôi chân tập tễnh cùng vết sẹo trên trán. Mẹ gái nhỡ lỡ thì, nghe lời bà ngoại góp gạo thổi cơm chung. Anh em tôi sinh ra khi mẹ đã già, còn bố thì trông như ông. Khi người ta bắt đầu vào Nam xung trận thì bố ẵm con say xỉn u mê.
Ngẫm lại thật may nhờ mẹ có nghề nấu rượu, nếu không chẳng biết lấy rượu đâu cho bố uống. Mười hai tháng, ông chỉ tỉnh táo đâu đó được đôi lần. Một bận là ngày đi gặp đồng đội vào chiều tháng Bảy. Bận khác, mẹ gói cho ông cái túi, một chú xe ôm chở ông đi ra tận ngoài cổng. Mẹ lặng lẽ nhìn theo. Tôi hỏi:
– Bố đi đâu hả mẹ?
– Mày ra mà hỏi ông ấy.
Mẹ cáu kỉnh chạy vội vào nhà. Tôi thấy mắt bà đỏ. Những năm thiếu thời trôi qua cùng sự biến mất định kỳ của bố. Tôi hỏi bao nhiêu lần, mẹ mắng bấy nhiêu câu. Nhưng mắng thì mắng, khi màn đêm bao trùm mảnh sân nhỏ, ánh đèn dầu leo lét cháy sáng góc nhà, mẹ vẫn ngồi trầm ngâm đợi cửa, thỉnh thoảng cằn nhằn khe khẽ:
– Mưa gió thế này…
Những đêm đó ánh đèn sáng rất khuya. Gió lùa qua vách tranh nghe thẽo thẹt day dứt. Lòng tôi băn khoăn. Bố đi đâu không biết? Cuối mùa mưa, khi dư âm tháng Bảy vừa qua, ông mới trở về…
Trong suốt thời thơ ấu vào tháng ngày chơi vơi đó, tụi nhỏ ở làng thường hay chạy theo tròng ghẹo trêu tôi:
– Bố mày đi kiếm em cho mày kìa…
– Bố mày có con rơi ở đâu đang đón về…
Dĩ nhiên, câu chuyện ấy chẳng bao giờ kết thúc bình yên. Người lớn thì không nói. Tôi để ý thấy lác đác cũng có những người đàn ông khác rời nhà trong tháng Bảy. Họ đi lầm lũi. Bóng lưng chìm vào màn đêm. Bóng lưng chìm vào ánh sáng. Lặng lẽ về phía trước. Cứ đi và đi…
*
**
Đêm trùm lên vùng trời Tây Bắc một khoảng không gian trầm buồn tĩnh mịch. Cánh đồng đen từng mảng, văng vẳng tiếng vài con ếch hòa tấu giai điệu bi thương ai oán. Dân làng Pua thường tụ tập nhau ngồi nói chuyện, toàn các bà, các mẹ…
Tôi đi vào mảnh sân cũ kỹ sạch bóng cỏ dại. Ngôi nhà vào đêm càng thêm trống vắng và cô độc. Ban nãy khi biết tôi sẽ ngủ lại đây qua đêm, mấy người già trong làng ngần ngại khuyên giải:
– Mày gan quá con. Không sợ ma nó bắt à?
– Dạ không ạ!
Tôi lắc đầu cười, một bà cụ khác thì nhìn tôi e dè:
– Hay cháu ở nhà bà này? Đừng vào đó. Sợ lắm!
Thái độ của họ khiến tôi càng cảm thấy tò mò. Khi tôi xách hành lý đi, vài người làng vẫn nài nỉ khuyên gàn ở sau lưng. Riêng bác trưởng thôn không khuyên nhủ giống những người khác, xong ông cứ nhìn chăm chú làm tôi thấy rùng mình. Nhà ở miền núi thời xưa thường là nhà sàn, duy chỉ có căn nhà tranh lại ở trệt. Nhìn qua nó giống cái lán của dân đi rừng, nhưng cũng đủ từ buồng khách đến buồng ngủ.
Tôi chọn một khoảng trống giữa sân để dựng lều thám hiểm. Không biết đêm nay sẽ thế nào? Gió miên man mơn trớn da thịt. Những con chim kiếm ăn bay về núi Lang gọi bầy quang quác khiến tôi thấy rợn người. Căn nhà tranh có lẽ đã để trống rất lâu. Mọi dấu ấn xưa vẫn được giữ gìn nguyên vẹn. Khác chăng, nhà có thêm chiếc bàn thờ với khung ảnh trắng đen in hình một người phụ nữ. Tôi đoán người phụ nữ ấy là chủ nhân căn nhà. Mà chị trông trẻ quá. Khéo chưa tới hai mươi. Tôi nhìn chị cười còn vương nét con gái. Hay là do ảnh chụp thời thiếu nữ nên vậy. Cái bàn thờ này sắp xếp cũng lạ. Cạnh bát hương lớn lại đặt thêm một bát hương nhỏ xíu. Kiểu sắp xếp mà dù đã đi lấy tin nhiều nơi tôi vẫn chưa từng gặp. Lạ lùng thật…
Tôi cầm đèn pin cẩn thận thám hiểm xung quanh. Bóng tối lùng mùng che mờ tầm mắt. Ánh sáng yếu ớt soi chẳng rõ mặt người. Đồng hồ đã điểm mười một giờ khuya. Chỉ một chút thanh âm the thé hoặc ồn ã từ xa truyền lại lúc này cũng đủ dọa tôi giật mình. Cảm giác sợ hãi lẳng lặng nhân lên trong từng tế bào. Gáy tôi lạnh toát, mồ hôi mẹ rủ mồ hôi con túa ra như tắm.
Lần theo vách tường, chân tôi loạng quạng lê từng bước, rốt cuộc bí ẩn ở đâu sao tìm mãi chưa ra manh mối. Bất ngờ, tiếng lạch cạch phía sau làm tôi hú hồn nhảy dựng. Ánh đèn lia nhanh nhưng chẳng thấy gì. Chắc con chó, con mèo nào chạy qua chăng? Đêm đen đặc quánh. Đột nhiên gáy tôi đau nhói, mắt tắt lịm ánh sáng.
Ai đó đang kéo tôi đi. Ai đó gọi bên tai. Ai đó… ai đó…
*
**
Súng nổ rung trời. Khói thuốc nồng nặc. Hơi khét lan tràn trong không khí xông cay xè khóe mắt. Trận đánh đang vào hồi khốc liệt. Sát bên tôi là người phụ nữ tóc dài gầy trơ xương, quần áo rách rưới. Chị ta ôm một bé trai gầy gò vào sâu trong lồng ngực. Họ bỗng dưng xuất hiện dọa tôi sợ thót tim. Khi bình tĩnh, tôi đưa tay tới chạm thử lại bất ngờ xuyên qua. Bàn tay như sương, như khói, mỏng manh vô hình tan rã giữa khoảng không.
Chị ôm thằng bé rất chặt. Cả hai co ro nép mình trốn dưới bồ thóc. Khi những bàn chân sầm sầm chạy tới, họ đã núp thật sâu. Hạt thóc len lỏi rơi vào mũi miệng khiến thằng bé khó chịu cựa quậy liên hồi. Người phụ nữ vội giữ chặt nó lại thì thầm khe khẽ: “Im lặng!”. Chiếc cót nhỏ hẹp chật chội vô cùng. Lúc sau có tiếng đạp mạnh, cánh cửa căn buồng bị hất tung ra. Những bàn chân lại chạy sầm sập, có giọng người chửi bới, xì xồ bằng thứ ngoại ngữ xa lạ, cả giọng đàn ông lơ lớ.
Chăn màn bị vứt xuống đất. Các loại dụng cụ làm đồng như liềm, cuốc đổ nghe lẻng xẻng. Những bàn chân lại gần cót lúa khiến người phụ nữ run rẩy hoảng sợ, chị ta ôm thằng bé chặt hơn, chặt hơn. Chị nhìn chằm chằm vành cót qua khe hở nhỏ xíu. Tôi đứng ở bên thấy thứ gì đó nhen dần trong đáy mắt. Thời gian trôi đi. Tim tôi đập thình thịch, thình thịch. Không được. Không được lại đây…
Nhưng lưỡi mác sáng loáng, tiếng súng đùng đoàng dập tắt hết thảy hy vọng. Lưỡi mác vùn vụt đâm xuống, đâm xuống, trơn tuột không sức cản. Thằng bé bị thương đau đớn lồng lộn. Người phụ nữ vội giữ chặt hơn. Chị ta đưa bàn tay bịt chặt miệng thằng bé. Tôi thấy nó nhe răng cắn cản. Máu rỉ đỏ vành môi. Mũi mác vẫn đâm xuống, tiếp tục đâm. Mác cắm vào ngực. Mác xẹt qua vai. Người phụ nữ trợn mắt nhăn mày chịu đựng. Tay xé miếng vải bọc quanh lưỡi mác. Thời gian rề rà chậm chạp. Khẩu hình chị ta cứ lặng lẽ thủ thỉ, chẳng rõ dặn dò ai.
“Không được lên tiếng…”
“Không được lên tiếng…”
Tôi muốn ngăn cản lưỡi mác mà không được. Tràng cười dài quái đản chợt vang lên. Giọng tên Việt gian lơ lớ:
– Có người… ha ha…
Tấm nia che chắn mặt cót bị hất văng lên. Ánh sáng chói mắt cản trở tầm nhìn của tôi. Khi rõ ràng mọi thứ, tôi nhận ra đó là ba tên đàn ông, một kẻ hơi béo giống tạng người Việt, còn lại hai kẻ ngoại lai cao lớn. Chúng lôi xềnh xệch hai người đi mặc kệ giãy giụa.
Một tên xốc ngược thằng bé ra khỏi mẹ mặc kệ nó la hét bất lực. Tiếng gọi “mẹ ơi, mẹ ơi” vang hoài trong vô vọng. Mắt thằng bé lồi ra trắng ởn. Bộ xương gầy gò chẳng đủ sức nặng neo giữ cánh tay tên lính. Hắn ném nó vào tường, lầm bầm chửi rủa:
– Ngu ngốc! Chúng nó nghĩ trốn được sao? Tao biết thừa rồi, dấu chân đầy đất, mác thì dính máu tưởng lừa nổi tao à. Xem ông trị chúng mày, lũ đàn bà ngu ngốc… ngu ngốc…
Hai gã lính khác lôi người phụ nữ ra giữa nhà. Mình thằng bé ở lại giữa một vầng đỏ thắm. Những đóa máu đỏ lịm bung nở trên vách tường, hằn vệt nối xuống sàn đất, rực rỡ ma mị. Ngoài nhà rộn ràng chuỗi thanh âm tục tĩu. Tôi đến gần thằng bé. Đôi mắt nó lồi trố, mở to không thể nhắm. Khuôn mặt thơ dại lắng đọng đau đớn. Liệu nó có hiểu chuyện gì đang xảy ra không? Hay nó sẽ dùng sự ngây thơ ấy mà nghĩ mẹ mình đang bận chơi một trò chơi gì đó mới lạ. Nó cứ nằm đấy. Máu đỏ mọc liên tiếp thành quầng, thành bụi. Mắt nó trợn trừng trừng, tôi khép mãi không được…
Người phụ nữ cũng nằm yên trên sàn, những tên lính đang hùng hục tra tấn. Tiếng thanh âm ngân dài triền miên, dai dẳng. Chị ta nghếch đầu về cửa buồng, mắt trợn to giống hệt thằng bé. Chỉ khác rằng, trong đáy mắt chẳng có nét thơ ngây mà thay thế bằng nỗi niềm khó nói. Như nhắc nhở. Như van nài. Mặc những giày xéo trên thân thể tàn tạ, đớn đau thân xác chẳng thể làm chị ta để tâm. Người nằm co quắp, đầu ngóng trông cửa buồng.
Hai thằng lính vẫn đang hì hục. Công việc quen thuộc chúng đã thực hành nhiều lần tại những bản làng. Thứ ngoại ngữ xa lạ vang lên xì xà xì xồ. Một tên cầm súng bắn xối xả xung quanh. Nó bắn bồ thóc, bắn móc nhà, bắn tủ quần áo. Chợt như có thứ gì ghim vào chân tôi ngã quỵ, đầu đau như búa bổ.
Và hình như chưa thỏa đam mê, hắn cười khà khà rồi cầm súng đến gần chỗ thằng nhỏ. Nhìn săm soi giây lát, hắn gí sát khẩu súng lục vào đầu nó.
Đoàng…
Một đóa máu đỏ lại nở tung trên đất. Hắn liếm láp khóe môi. Khẩu súng tiếp tục di chuyển. Mỗi lần tiếng súng vang lên là một đóa máu chớm nở. Bàn chân tôi nặng nề. Cái thứ chết tiệt gì đó ghim trong trán, ghim vào chân thật khó chịu. Thằng lính mân mê khẩu súng. Bọn chúng tiếp tục xì xồ. Hắn đem nòng súng tiến lại gần bàn tay đang chới với hướng phía buồng.
Lại một tiếng đoàng…
Tí tách mưa rơi, máu vẫn nở, vẫn rơi. Khi những tên lính đi, chị vẫn nằm lặng yên nơi đó. Cặp mắt lồi trố, đồng tử dần tan rã. Hơi thở thoi thóp yếu ớt. Chỉ những đóa máu đỏ rực lên rồi sẫm màu lạ thường bầu bạn. Tôi lết bàn chân đau nhức đến gần cố ôm chị vào lòng nhưng không được. Chỉ biết trơ mắt nhìn dòng chảy sinh mệnh mỏng manh trôi tuột qua kẽ tay. Tại sao? Tại sao tôi không thể chạm vào chị ta? Tại sao tôi hô hào mà chẳng ai nghe thấy? Tại sao giờ phút này chị ta vẫn thều thào không rõ dặn dò ai.
Không được lên tiếng…
Không được lên tiếng…
Tuyệt đối không được lên tiếng…
*
**
Giọng ai đó văng vẳng bên tai tôi. Người nào đang vỗ vỗ mặt gọi tôi dậy. Mí mắt nặng như đeo chì. Khi vừa mở mắt, tôi liền bắt gặp gương mặt nhăn nhúm của bác trưởng thôn và vài người dân làng Pua. Thấy tôi tỉnh táo hơn, có người khẽ hỏi:
– Cậu tỉnh rồi à?
– Dạ vâng. Sao cháu lại ở đây ạ?
– Cậu bị ngất. Là ông ấy thấy cậu nằm gục ngoài rìa làng nên đưa cậu về nhà.
Một bác gái chỉ tay về phía trưởng thôn. Ông ấy nhìn tôi đăm chiêu giây lát xong chợt đổi giọng cáu kỉnh:
– Cậu tỉnh rồi thì mau đi đi.
Thái độ quay ngoắt một trăm tám mươi độ của ông khiến tôi rất ngạc nhiên. Sao thế nhỉ? Rõ ràng họ còn đang rất niềm nở cơ mà. Tôi lắc đầu xua tan những mối nghi hoặc khó gỡ. Tay vặn vô lăng, xe vun vút lao nhanh. Làng Pua trượt lại phía sau ngày càng nhỏ, mờ dần và biến mất…
Giấc mơ đêm cứ hiện về chập chờn. Người phụ nữ ăn mặc rách rưới. Thằng bé gầy trơ xương. Những tên lính cười khả ố. Giấc mơ ấy rực rỡ mấy quầng hoa máu đỏ thẫm. Đóa máu mọc trên tường. Đóa máu gieo xuống đất. Chúng đánh thức tôi bằng mồ hôi ướt đẫm. Trái tim đau nhức như ngàn gai đâm chọc. Đêm dài miên man. Biết khi nào trời mới lại sáng?
Đợt này, mẹ gọi điện nói bố đau nhiều hơn. Bà nhắc tôi hôm nào xin nghỉ phép về quê cho ông đi khám bệnh. Gần tới tháng Bảy, những chuyến đi lại đang chờ đợi bố. Ở nơi nào trên miền núi Tây Bắc xa xôi? Liệu có làng Pua không? Ngôi làng nằm tít nơi hoang vu rừng rú hẻo lánh. Tôi bật cười. Thật là suy nghĩ vẩn vơ. Làng Pua xa quá trời xa chứ đâu có gần. Mà đồng đội của bố thì lại nằm khắp nơi…
*
**
Tôi ngồi xuống bàn làm việc. Nhiều hôm rồi, câu chuyện đêm đó ở căn nhà tranh vẫn mãi ám ảnh. Sự tò mò ban đầu giờ không giảm bớt mà dường như đang phóng đại lớn hơn. Nó thôi thúc tôi tiếp tục tìm kiếm. Ngặt nỗi tư liệu không đề cập nhiều. Tôi nghĩ cuộc thảm sát năm đó, làng Pua có rất nhiều người thoát nạn, chỉ là không biết họ thoát như thế nào. Khi chiến tranh lùi xa, đất hoang tàn xơ xác, ngôi làng nào cũng tang tóc đau thương, để tìm kiếm những người dân làng cũ quả thực rất khó khăn.
Tôi quyết định trở lại làng Pua thêm lần nữa. Kỳ này, tôi đi âm thầm lúc trời khuya khoắt. Đằng trước có một đoàn thám hiểm vừa tới. Căn nhà trong đêm vẫn âm u vắng lạnh, gió rít gào bên hiên, những tràng hú hét lại ngân vang không dứt. Tôi chạy nhanh vào sân nhà, mấy cái lều lùng bùng như có người đang cào cấu vùng vẫy. Tiếng chim lợn eng éc. Giọng nữ thất thanh mang âm hưởng đến từ địa ngục. Thành viên đoàn thám hiểm nằm la liệt trên sân. Bác trưởng thôn đang lôi kéo họ xích gần bên nhau. Thấy tôi, ông giật mình đứng khựng, lát sau ông tiếp tục động tác dang dở. Xong xuôi, chúng tôi vào trong nhà ngồi đối diện nhau, không ai nói câu nào. Sự im lặng đè nén không gian khiến tôi nghẹt thở.
– Sao bác làm vậy?
– Để các người đừng tới đây. – Ông đột nhiên gầm lên, chỉ tay vào bàn thờ. – Cậu thấy không, mảnh đất này không cần những người đến khám phá trò vui. Mấy tay khốn khiếp còn định bán mảnh đất này đi xây khu du lịch. Cút đi. Các người cút hết đi…
Trưởng thôn như mất trí. Ông ta lôi xềnh xệch tôi ra khỏi nhà. Trên chiếc bàn thờ, di ảnh cô thiếu nữ vẫn lặng lẽ dõi theo. Nụ cười, gương mặt kia sao nó quen thuộc quá. Nỗi hiếu kỳ lại dâng lên, thôi thúc mạnh mẽ hơn nhưng cũng ngập tràn do dự:
– Cháu đã nhìn thấy…
– Cậu thấy… thấy gì…
– Căn nhà, người phụ nữ, thằng bé và những tên lính…
Sau khoảng lặng dài như thế kỷ, bỗng nhiên ông trưởng thôn nghẹn ngào bật thốt:
– Đó là chị gái tôi…
– Chị gái bác?
– Ừ! Năm đó, chúng tôi núp trong hầm dưới nền buồng mà nhìn xem tất cả, nhưng chẳng thể làm gì… Chẳng thể làm gì… Cậu biết không?
Người đàn ông bảy mươi tuổi nức nở bất lực giống đứa trẻ mới sinh. Rồi ông tâm sự, vào những năm lính Nhật rút khỏi Đông Dương hay thời kỳ quân Pháp chiếm đóng khắp vùng Tây Bắc, trên đường di chuyển chúng vẫn lùng khắp các bản làng. Chúng bắt đàn bà. Chúng giết trẻ em. Chúng cướp vàng bạc, trang sức, đốt phá tanh bành. Những người lính hoạt động cách mạng cùng dân làng trốn sâu trong núi, giấu mình dưới hòm tủ. Không ai được lên tiếng. Họ im lặng chứng kiến, nén nỗi niềm riêng chờ lũ địch đi mới chôn cất thân nhân và dắt díu nhau trốn sang vùng giải phóng. Nhiều năm sau trở về, cảnh còn người mất. Họ dựng làng từ những tàn tích ngày cũ theo ký ức mơ hồ, chỉ riêng dấu vết chiến tranh là hằn sâu trong trí nhớ.
Hôm ấy, chị cả vì bảo vệ người lính mà lấy mình ra làm mồi nhử. Lũ giặc cứ nghĩ trong nhà đã hết người nên xong việc vội vã rút chạy. Cuối cùng người lính ấy thoát thân, dẫn dân làng đến được vùng giải phóng, chỉ chị bác mãi nằm lại nơi nền nhà lạnh lẽo…
– Bác biết căn nhà này kỳ lạ à?
– Tôi biết! Nhưng thế thì sao?
Ờ, thế thì sao? Những người đi ra khỏi cuộc chiến có lẽ họ cũng chẳng e ngại chút gì. Vì nỗi đau ám ảnh đôi khi còn đáng sợ hơn. Nó như con kiến dai dẳng gặm cắn đêm ngày, dằn vặt người ta suốt năm suốt tháng…
*
**
Tôi về thăm bố vào một chiều nắng nhạt. Quê tôi đang ngày mùa. Rơm rạ, lúa thóc phơi khắp nơi. Cái mùi cơm mới thơm ngon vấn vương trên từng mái bếp. Mẹ bắt gà làm thịt. Bố thì nằm trong nhà ôm cái chân bị tật. Những ngày tháng Bảy đang tới gần, thời tiết thay đổi thất thường, lúc nắng lúc mưa chẳng biết đâu mà lần. Nghe mẹ bảo độ này bố tỉnh hơn, ít đau đáu nức nở lầm bầm. Nhưng sức khỏe thì yếu hơn trước, chỉ là ý niệm ra đi của ông thì vẫn sôi trào mãnh liệt. Thế mà mẹ vẫn đồng ý.
Trong lúc chờ cơm, tôi ngồi với đống tư liệu về làng Pua bày ngổn ngang trên bàn. Trưởng ban đang hối bài nhưng tôi chưa muốn viết. Những chi tiết cứ đan bện quấn quýt, viết hướng nào cũng chẳng ổn. Mà viết rồi thì sao? Ông trưởng thôn lâu nay vẫn tạo ra các loạt âm thanh kỳ lạ giữ bình yên cho ngôi nhà. Tôi viết bài rồi, mọi chuyện có được giữ kín nữa không?
– Mày lấy đâu ra tấm ảnh này?
Tay bố run run cầm tấm ảnh. Có hạt nước rơi trên nụ cười của người phụ nữ trong ảnh. Sự chờ đợi bỗng trở nên ngắn ngủi khi ông liên tục giục giã:
– Nhanh dẫn tao đi, đi luôn…
Tôi còn đang ngơ ngác bố đã túm tay áo lôi đi. Mẹ ở dưới bếp cũng chạy vội lên nhà.
– Làm sao? Đi đâu thì cũng bình tĩnh đã xem nào.
Bà giằng cánh tay đang lôi kéo tôi rồi vịn bố ngồi xuống giường. Bố nâng niu tấm ảnh, mếu máo như đứa trẻ lên ba:
– Chị ơi! Em tìm thấy chị rồi. Là chị cứu tụi em. Là chị lấy thân mình làm mồi nhử. Vết đạn ghim trong chân, mảnh bom văng vào đầu làm sao đau bằng chị. Là em có lỗi với chị, với cháu, với anh nhà đã hi sinh… chị ơi…
Bố khóc nấc từng hồi. Người đàn ông gần bảy mươi bình thường dù đau đến mấy cũng cắn răng nín nhịn giờ đang nhỏ lệ. Nước mắt chảy tràn gương mặt khắc khổ. Mẹ tôi cũng khóc. Bà ôm lấy ông vỗ về nhẹ nhàng, còn tôi thì chết lặng.
– Chị ơi…
Ngôi làng Pua xa xôi nơi núi rừng hẻo lánh. Căn nhà tranh vách đất với những đóa máu đỏ au trong đêm tối lóe sáng lập lòe ma mị. Âm thanh thủ thỉ vang vọng. “Không được lên tiếng. Không được lên tiếng.” Hình như cũng gần ngay trước mắt…
Gia đình tôi tới làng Pua một ngày cuối tháng Bảy. Đúng cái hôm giỗ chung của làng. Đâu đâu cũng khói nhang nghi ngút, đoàn người cầm khăn, ôm mặt rấm rứt. Chặng hành trình vượt núi, băng đèo dài dặc thương nhớ để vào xóm làng nặng mùi tang tóc. Thế mà chẳng ai khó chịu. Mẹ dìu bố hòa vào dòng người. Giống mạch suối đổ ra sông không chút do dự. Giống những chuyến đi tháng Bảy chưa bao giờ dừng.
– Sao mẹ cho bố đi? Sức khỏe bố yếu lắm, đi xa thế không tiện.
Tôi hỏi khi ở nhà. Mẹ trầm ngâm thật lâu rồi đáp nhỏ:
– Tao thương ông ấy.
Hình ảnh ngọn đèn dầu leo lét đợi cửa suốt thời thơ ấu lại bùng lên trong tôi. Bấy nhiêu năm nay bố cứ mải miết tìm kiếm vô định mà mẹ đâu cấm cản. Chỉ vì thương thôi sao? Hay vì điều gì khác? Người đàn bà tảo tần khuya sớm. Người bà lặng lẽ đứng phía sau ủng hộ tất cả…
Tôi theo dòng người đi viếng thăm từng nấm mộ. Khi trở lại căn nhà, bầu trời đã nhá nhem tối. Cả nhà ba người đứng nghiêng mình trước di ảnh. Bố cúi người thật sâu. Những giọt lệ chất chứa bao nỗi niềm lặng lẽ rơi xuống. Tôi như nhìn thấy cả một vành hoa đang lặng lẽ bay màu.
Đêm nay, căn nhà không còn những tiếng động kì lạ…
Đêm nay, có người lính đi xa trở về…
*
**
Trưởng ban giục tôi mau viết bài giải mã làng Pua. Dân báo chí phải biết tranh thủ độ hot đề tài mà kéo view cho tòa soạn. Nhưng lòng tôi băn khoăn quá. Có thứ gì đó cứ lấn cấn khiến tôi không thể viết. Nên hay không? Mỗi lần muốn công khai bí ẩn, đầu tôi lại phảng phất cảnh ông trưởng thôn khóc, bố tôi khóc. Nơi ấy đâu phải điểm đặt chân cho những kẻ ưa khám phá. Sự đắn đo mỗi ngày một lớn. Và hôm trước, giữa cuộc họp ban biên tập tôi dồn hết sự dũng cảm bấy nay từ chối lên bài. Anh trưởng ban hỏi sao, khi nghe tôi kể những điều trông thấy thì anh lặng im, lâu sau mới thở dài gật đầu đồng ý, bảo thôi để quá khứ ngủ yên.
Nhưng tôi mỗi lần nhớ lại cảm giác mắc nợ cứ nhói lên day dứt. Cuối cùng, tôi quyết định viết cho riêng tôi, những con chữ xếp hàng phác họa từng đường nét chân dung, một tượng đài bằng xương bằng thịt mà bất tử mãi mãi với thời gian…