Nguyễn Văn Chiến
Bài tham gia cuộc thi viết “Chân dung cuộc sống”
Ông KSor Ní, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai là những trí thức đầu tiên của dân tộc Jơ Rai trên đất Tây Nguyên đi theo cách mạng. Sinh tại buôn Thăm, xã Ia Trok, huyện Ia Pa, cuộc đời của ông kinh qua nhiều trọng trách, song điều quý nhất là ông đã để lại những sản phẩm tinh thần, về ý chí và tấm lòng thủy chung, son sắt với Đảng, với cách mạng và gieo những hạt giống đỏ trên quê hương Gia Lai để đồng bào Jơ Rai hôm nay mãi mãi bước theo.
Cuộc gặp Bác Hồ năm 1946
Chúng tôi đến thăm ông Ksor Ní đầu năm 2018. Nghe tin có khách ở Kon Tum đến chơi, từ nhà dưới đi lên phòng khách, ở tuổi chín mươi ba nhưng những bước đi của ông vẫn chắc khỏe với vóc dáng đậm chất của một người Tây Nguyên đã trọn đời đi theo cách mạng.
– Bác còn khỏe chứ ạ? – Tôi hỏi.
– Tôi phải sống để chứng kiến thành quả đổi mới của đất nước, cuộc sống mới của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên chứ – Ông rành rọt trả lời.
Ông mời chúng tôi ngồi rồi hỏi “lý lịch” của tôi và nhà báo Lê Văn Thiềng, nguyên Trưởng Ban Công tác Hội của Hội Nhà báo Việt Nam cùng đi. Biết chúng tôi làm báo, ông kể ngay chuyện ông đã từng viết báo từ những năm đầu cách mạng tháng Tám thành công.
Chuyện ông kể là thế này: Năm 1946, từ buôn Thăm, ông được cử ra Hà Nội dự Đại hội Thanh niên các dân tộc Việt Nam. Ra đến thủ đô, ông nghe Đài phát thanh của Pháp nói đại ý là: Người dân Tây Kỳ (Tây Nguyên) “niềm nở” đón tiếp quân Pháp xâm chiếm Tây Kỳ. Ông bảo là mình nghe đài Pháp nói thế thì tức lắm vì sự thật không đúng như vậy. Người dân Tây Nguyên luôn một lòng theo cách mạng, đoàn kết đánh đuổi giặc Pháp, thế mà đài của chúng lại nói ngược lại. Ông nói, viết được tiếng Pháp, vì thế, chàng trai Tây Nguyên Kso Ní khi ấy mới 22 tuổi đang ở giữa lòng Hà Nội lúc ấy đã viết ngay một bài báo bằng tiếng Pháp và ông gửi cho báo Lơ Pa-ri-a (tiếng Pháp có nghĩa là Nhân Dân) phản bác lại những luận điệu xuyên tạc của đài phát thanh Pháp; cổ vũ, động viên đồng bào Tây Nguyên đánh giặc giữ buôn làng.
Khi bài viết của ông được báo đăng, Bác Hồ đã cho gọi ông vào Bắc Bộ Phủ. Ông nói rằng, đó là một buổi chiều lịch sử và mãi mãi theo ông trong cả cuộc đời đi làm cách mạng của mình.
Ông kể rằng, hôm ấy là một buổi chiều cuối thu năm 1946, đồng chí Y Ngông Niê Kdăm (cố Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội) gặp ông và nói: “Em được vào Bắc Bộ Phủ để gặp Hồ Chí Minh”. Ông đi theo Y Ngông Niê Kdăm vào Bắc Bộ Phủ. Khi gặp Bác ở phòng làm việc, ông xúc động quá, cứ phải bám riết lấy Y Ngông. Ông kể lại câu chuyện, chậm nhưng rành rọt: “Được Bác bắt tay, tôi rất xúc động và cho đến bây giờ, đã qua hơn 60 năm nhưng tôi cảm nhận như đôi bàn tay của Bác vẫn luôn ấm nóng, tròn đầy tình thương của vị lãnh tụ đối với một thanh niên người dân tộc thiểu số như tôi”.
Nhớ lại buổi gặp Bác đầu tiên ấy, ông kể tiếp: “Bác ngồi trước mặt chúng tôi, ân cần hỏi thăm sức khoẻ, hỏi thăm gia đình hai anh em chúng tôi. Anh Y Ngông chỉ vào tôi rồi giới thiệu với Bác: ‘Đây là KSor Ní, là thanh niên dân tộc Jơ Rai’”. Bác cười, gật đầu. Tôi cứ sững sờ nhìn Bác. Bác gần gũi và thân tình quá, tự nhiên tôi không còn e ngại nữa. Bác hỏi thăm sức khỏe của mọi người ở Nha dân tộc Trung ương. Đồng chí Y Ngông báo cáo: “Thưa Bác, giặc Pháp đã chiếm mất Tây Kỳ rồi ạ”. Bác nói: “Bác biết rồi” và thấy nét mặt của Bác thoáng buồn. Lúc ấy, Ksor Ní xen vào: “Thưa Bác, ta có đánh Pháp để giải phóng Tây Kỳ không ạ”. Bác đứng dậy cầm lấy tay hai chúng tôi rồi nói: “Phải đánh”. Rồi Bác đưa bàn tay lên ý nói là bàn tay có năm ngón nếu thiếu một ngón thì không còn là một bàn tay. Cũng như cả nước Việt Nam, Việt Nam độc lập thì Tây Kỳ cũng được hưởng hạnh phúc do nền độc lập của Tổ quốc đem lại.
Ông kể tiếp, nghe Bác Hồ nói vậy, tôi và anh Y Ngông đều rất phấn khởi. Bác khuyên chúng tôi cố gắng học tập, chăm lo giữ gìn sức khoẻ và làm công tác cách mạng tốt hơn. Từ bé học ở trường của Pháp toàn viết và nói tiếng Pháp, song nghe lời Bác dạy bảo, chỉ sau ba tháng, tôi đã biết đọc, biết viết tiếng phổ thông và được làm việc trong Phòng Văn xã của Nha Dân tộc Trung ương tại Hà Nội. Ngày 15 tháng 12 năm 1946, trước lúc Bác Hồ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 4 ngày, tôi được vinh dự kết nạp vào Đảng. Thế là từ một thanh niên trí thức người dân tộc thiểu số, được giác ngộ cách mạng, tôi đã trở thành một đảng viên cộng sản.
Từ ngày được gặp Bác Hồ, ông luôn tâm niệm phải sống để xứng đáng với niềm tin của Bác đối với đồng bào Tây Nguyên. Khi trở về quê hương tỉnh Gia Lai trong những tháng năm kháng chiến gian khổ, điều đầu tiên ông nói cho bà con biết đó là về Bác Hồ và Đảng. Từ đó trở đi, người đảng viên KSor Ní một lòng đi theo cách mạng trong suốt chặng đường đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Cách mạng đổi đời người Jơ Rai
Trong câu chuyện với chúng tôi, ông vẫn nhớ đến từng chi tiết cuộc đời của mình và người dân tộc Jơ Rai ở Tây Nguyên quê ông trong những tháng năm gian khổ nhưng một lòng theo cách mạng. Ông kể rằng, cùng chung số phận của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên thời bấy giờ, gia đình ông rất nghèo. Các ngôi nhà trong buôn làng ở Ia Pa, Ayun Pa của vùng đất Cheo Reo – Phú Bổn bấy giờ tuềnh toàng lắm, đàn ông đóng khố cởi trần, đàn bà khi lấy chồng có con là trên người chỉ còn mặc độc một cái váy và cũng ở trần như đàn ông.
Cha mẹ ông sinh được 4 người con, trong đó có 3 chị gái, ông là con út. Quanh năm quần quật với cái nương, cái rẫy, đói thì đi đào củ rừng qua bữa, rét thì đốt lửa sưởi, đau thì rước thầy mo về cúng đuổi ma. Thuở còn ngồi ôm lưng cha, cậu bé KSor Ní đã chứng kiến cảnh lính Pháp từ đồn Cheo Reo, địa phận giáp với tỉnh Phú Yên bây giờ về buôn Thăm quê ông lùng bắt người đi lính, đòi thuế và bắt con gái đẹp đưa lên đồn cho quan Tây. Người nào dám chống lại đều bị chúng tra tấn, đánh đập rất dã man, thậm chí giết chết.
Tuổi thơ ông được nghe kể về những người Cộng sản. Có lần, ông theo cha đi uống rượu với một người đi lính khố xanh cho Tây về phép. Người lính khố xanh này kể chuyện về cuộc đấu tranh lưu huyết của những người tù Cộng sản tại Ngục Kon Tum: “Những người Cộng sản nói Pháp là kẻ cướp nước, cho nên người Cộng sản không sợ chết, không sợ tù đày. Pháp bắn người này ngã xuống, lập tức người sau xông lên, chết vẫn không lùi bước”.
Nhiều người ở buôn Thăm nghe chuyện tỏ lòng khâm phục, muốn được xem mặt người Cộng sản. Người Cộng sản chống Pháp cũng giống như mình chống Pháp thôi! Ông Siu Jơ Ling, cha của KSor Ní đã nói như vậy sau cái lần bị lính Tây ở đồn Cheo Reo bắt giam mười ngày vì “tội” giấu thanh niên không khai tên để nộp thuế thân. Năm 1935, ông bị Pháp tra tấn đến mang bệnh, không có thuốc thang cứu chữa nên ông Siu Jơ Ling đã qua đời. Sau khi cha mất, KSor Ní phải sang ở với người anh rể tên là Rơ Ô Bơng ở buôn Săm Ma Na bắt đầu học lớp 1 rồi sang tỉnh Buôn Ma Thuột học hết bậc tiểu học. Suốt 6 năm học, KSor Ní luôn đạt học sinh giỏi. Tốt nghiệp bậc học, năm 1941, KSor Ní chuyển đi học tại trường Võ Tánh ở Quy Nhơn. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, Chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật lên cầm quyền. Trường Quy Nhơn chuyển sang học tiếng Việt, (trước đó tiếng Việt không được sử dụng, học sinh phải dùng hoàn toàn tiếng Pháp). Đầu tháng 4 năm 1945, trên đường từ Quy Nhơn về Cheo Reo, ông dừng lại ở Plei Ku để nghe ngóng tình hình, ghé thăm ông Nay Phin, Hiệu trưởng Trường tiểu học Plei Ku. Tầng lớp thanh niên trí thức người dân tộc khi ấy thường xuyên tập hợp thành từng tốp nhỏ để diễn thuyết, nói chuyện chống Pháp, ủng hộ cách mạng và Bác Hồ.
Bác Kso Ní nhớ lại, tháng 6 năm 1945, ông Rơ Chăm Thép từ Trường Canh nông ở mãi tỉnh Tuyên Quang về. Gặp KSor Ní, Rơ Chăm Thép mừng lắm. Ông kể: “Ở Tuyên Quang, phong trào Việt Minh nổi lên rất mạnh, kêu gọi đánh Pháp, đuổi Nhật. Chỉ trừ một số ít người về quê, còn lại phần lớn học sinh đều bỏ học, lên rừng theo Việt Minh. Tôi nhớ quê, nhớ cha mẹ quá nên xin về đây”. Ông Rơ Chăm Thép cũng kể cho bạn mình nghe những điều mình hiểu biết về Việt Minh: “Việt Minh chủ trương đánh Pháp, đánh cả Nhật, giành lại độc lập, tự do cho đất nước Việt Nam, thực hiện đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc”.
Thấy vấn đề mới mẻ quá, Ksor Ní quyết định không về quê, mà ở lại Plei Ku tích cực tham dự các buổi sinh hoạt của thanh niên. Tháng Tám năm 1945, sau khi đón đại diện của Việt Minh về tiếp nhận chính quyền tại Plei Ku, ông cùng với ông Nay Phin về quê nhà ở Ia Pa tổ chức khởi nghĩa, bao vây huyện lỵ Cheo Reo, buộc chính quyền tay sai thân Nhật phải hạ vũ khí đầu hàng. Uỷ ban nhân dân cách mạng huyện Cheo Reo được thành lập do ông Nay Phin làm Chủ tịch, Ksor Ní được phân công phụ trách tài chính. Ông kể: “Sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, chúng tôi mới biết cả nước đã có Chính phủ lâm thời do cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, là lãnh tụ của các dân tộc Việt Nam”.
Trong cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước ta đầu năm 1946, ông KSor Ní được bầu là đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Gia Lai khoá I. Từ tháng 3 năm 1946, ông về Plei Ku tham gia tổ chức Đại hội đoàn kết nhân dân các dân tộc Tây Nguyên chống Pháp. Đại hội vui mừng được đón nhận thư của Bác Hồ để hôm nay, đồng bào các dân tộc thiểu số mãi ghi nhớ lời dạy của Người.
Cuộc đời của ông Ksor Ní kinh qua nhiều trọng trách ở tỉnh Gia Lai, song điều quý nhất là ông đã để lại những sản phẩm tinh thần, về ý chí và lòng quyết tâm theo Đảng, theo cách mạng và gieo những hạt mầm xanh trên đất Tây Nguyên mà đồng bào Jơ Rai trên quê hương ông mãi mãi bước theo. Các con, cháu của ông đều nối gót truyền thống cách mạng của gia đình. Trong số đó có ông Kso Phước, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội; ông Kso Nham, nguyên Phó bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Gia Lai, Trung tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Kỹ thuật – Hậu cần Bộ Công an. Hiện nay, người cháu nội của ông là nữ trung tá Ksor H’Bơ Khắp, Phó Giám đốc Công an tỉnh Gia Lai, nguyên đại biểu Quốc hội khóa XIV, ủy viên Hội đồng Dân tộc của Quốc hội. Trong nhiệm kỳ làm đại biểu nhân dân, Ksor H’Bơ Khắp nhiều lần làm “nóng” nghị trường với những chất vấn, tranh luận thẳng thắn, được người dân đồng tình, ủng hộ.
Trước khi chia tay chúng tôi, ông Kso Ní đã đọc bài thơ bằng tiếng Jơ Rai ông viết để tuyên truyền cho đồng bào Tây Nguyên trong những năm tháng kháng chiến cùng cách mạng. Giọng của ông sang sảng, đầy nhiệt huyết: “Hồ Chí Minh anh dũng phi thường! Hồ Chí Minh có chủ trương, đường lối đúng đắn. Chúng ta tuyên truyền cho mọi người biết, tên người như Vàng? Hồ Chí Minh là người điều khiển chế độ chúng ta? Người Jơ Rai, người Tây Nguyên quyết một lòng đánh Pháp”. Đọc xong những câu thơ trên, ông đứng dậy đưa bàn tay phải đặt vào bên ngực trái, nói: “Đảng, Bác Hồ luôn ở trong trái tim tôi, người Jơ Rai luôn theo Đảng thủy chung, son sắt”.
Trong một ngôi nhà nhỏ nằm trên đường Phan Đình Phùng của thành phố Plei Ku, ông Ksor Ní đón đứa chắt ngoại từ tay người con gái út, nét mặt ông rạng ngời nhìn lên tấm ảnh Bác Hồ treo trang trọng ở giữa nhà. Tôi nhìn sang bên kia đường là Bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh Gia Lai – Kon Tum, những nhánh mai vàng vẫn rực rỡ giữa đất trời Tây Nguyên bất khuất.
Ra đi từ buôn Thăm, trên con đường dấn thân theo cách mạng, với những điều được trải nghiệm, ông KSor Ní càng thấy rõ hạnh phúc của mỗi gia đình, mỗi dân tộc đều không thể tách rời hạnh phúc chung của cả đất nước.
Ông Ksor Ní mất năm 2019, hưởng thọ 94 tuổi.