Nguyễn Xuân Hòa giới thiệu và dịch
“Trên cánh đồng Kulikovo” là bài thơ dài trữ tình-lịch sử tuyệt tác của A. Blok gồm 5 chùm thơ, 120 câu thơ. Nhà thơ muốn tái hiện trang sử của cuộc chiến tranh ái quốc của nhân dân Nga cuối thế kỷ 14, ghi lại bức tranh của trận chiến đấu quyết liệt của nhân dân Nga với Liên minh bộ lạc Tacta – Mông Cổ do tên tướng Mamai cầm quyền. Sự kiện lịch sử của thế kỷ xa xưa ăn sâu vào tâm trí nhân dân Nga chính là nguồn cảm hứng để Blok nói lên những điều suy nghĩ của hôm nay, tự hào về truyền thống anh hùng của cha ông qua biểu tượng người anh hùng dân tộc – Quốc công Đmitri Đonskoi đã chiến thắng giặc Tacta trên bãi chiến trường Kulikovo (1380). Mạch thơ trữ tình yêu nước của Blok vang lên tha thiết, sâu đậm như tiếng nói tự đáy lòng của những người con đối với nước Nga Mẹ hiền, xót xa trước cảnh “Chiến trận triền miên. Ta chỉ mong thấy được bình yên. Qua máu và qua bụi…”. Trên nền bối cảnh đất nước đang rên xiết dưới gót giày của bọn xâm lược hiện lên rõ nét một bức tranh hào hùng của người dân Nga đang xả thân, sẵn sàng ưỡn ngực mình để bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng của cha ông xây đắp.
Với nỗi trăn trở và lòng biết ơn nước Nga – Mẹ hiền Tổ quốc, Blok tự hứa phải trả xong món nợ tinh thần với nước Nga đã sinh thành và nuôi dưỡng mình trở thành một nhà thơ-công dân. Ròng rã hơn nửa năm trời từ ngày 7 tháng 6 năm 1908 đến 23 tháng Chạp năm 1908 với quyết tâm bền bỉ đến ngạc nhiên, Blok đã hoàn thành bài thơ dài trữ tình – lịch sử Trên cánh đồng Kulikovo để dâng tặng nước Nga và nhân dân Nga. Lúc này ở nhà thơ trẻ Blok dòng máu công dân trội hơn, lấn át dòng máu quý tộc xuất thân, Blok đã dành những lời thơ đằm thắm, da diết của một đứa con được sống trong chiếc nôi rộng lớn là nước Nga thân yêu để nói về Tổ quốc trong mạch thơ trữ tình yêu nước.
TRÊN CÁNH ĐỒNG KULIKOVO
Aleksandr Blok (1880 -1921)
1
Sông nước dàn ra. Lờ đờ nước chảy
Và táp lên đôi bờ đẫm nước
Trên nền đất sét màu vàng
Những đống cỏ chất trên thảo nguyên.
Ôi nước Nga của ta! Người vợ của ta! Đau đớn!
Hiển hiện dài lâu trước mắt!
Con đường chúng ta đi - bằng mũi tên
của ý chí cổ xưa người Tacta
Cắm vào ngực chúng ta!
Con đường chúng ta đi - con đường thảo nguyên
Con đường chúng ta trong nỗi buồn vô hạn
Nỗi buồn của Người, ôi nước Nga!
Màn sương đêm và cả mây mù nơi xa Tổ quốc
Ta đâu có sợ chi.
Mặc đêm tối. Ta băng lên. Ta cời đống lửa
Soi trên thảo nguyên xa xăm
Ngọn cờ thiêng liêng ánh lên trong khói thảo nguyên
Soi cả chất thép đường gươm tướng giặc.
Chiến trận triền miên!
Ta chỉ mong thấy được bình yên
Qua máu và qua bụi...
Ngựa mẹ thảo nguyên bay, bay
Cây vũ mâu thân ải...
Không điểm cuối! Xa ngái dặm dài, những dốc đứng
thấp thoáng...
Dừng lại!
Những đám mây sợ hãi trôi, trôi
Hoàng hôn trong máu!
Máu tứa ra từ con tim! Máu nhuốm hoàng hôn!
Khóc đi, hỡi con tim, khóc nữa đi...
Không có bình yên, ngựa mẹ thảo nguyên
Tung vó phi!
7 tháng Sáu 1908
2
Giữa đêm bạn với ta trên thảo nguyên
Không quay trở về, không ngoái đầu lại.
Phía bên kia sông Nepryadva ngỗng trời kêu
Ngỗng trời kêu, kêu hoài, kêu mãi…
Đá trắng nóng bỏng trên đường ta đi
Bên kia sông đoàn quân bị rượt đuổi.
Những quân đoàn đi dưới rạng ngời cờ đỏ
Không bao giờ còn có dịp tung bay.
Rồi cúi đầu nhìn tôi bạn nói:
“Mũi kiếm đường gươm mài sắc chớ quên
Để cùng bọn Tarta kịch chiến
Chết cam lòng vì sự nghiệp thiêng liêng!”
Tôi, người chiến binh không cuối cùng,
không trước nhất
Tổ quốc sẽ còn đau lòng mãi mãi
Trong buổi thánh lễ sáng sớm mai
Hãy nhớ người vợ sáng trong, người bạn yêu mến của tôi!
8 tháng Sáu 1908
3
Tướng giặc Mamai ngả lưng cùng quân lính trong đêm
Chỉ còn đống cỏ và những chiếc cầu
Trên cánh đồng tối đen chỉ có tôi và Em -
Có lẽ nào Em không hay biết?
Trước sông Đông tối đen và cuộn sóng
Giữa những đống cỏ ban đêm
Tôi nghe giọng nói Em bằng trái tim tiên đoán
Trong tiếng đàn ngỗng trời kêu, kêu.
Giữa đêm đám mây đen cuộn lên cao
Đạo quân của triều đình
Đạo quân đi phía xa xa va vào vách đứng
Lời mẹ gọi.
Và những con chim ban đêm bay lượn vòng
Phía xa xa chao liệng
Trên nước Nga cổ những hừng đông yên tĩnh
Bảo toàn cho Quốc công*.
Lũ giặc Tacta ở trại đóng quân
Chim ưng kêu báo tin điềm gở
Dòng Nepryadva trôi xuôi trong màn sương mờ
Như dải khăn voan công tước tiểu thư.
Trong màn sương mờ dòng Nepryadva ngái ngủ
Em xuống ngựa ngay trước mặt tôi
Dáng Em óng ánh nhẹ tênh trong y phục
Con tuấn mã đứng yên chẳng sợ tí nào.
Với người bạn Em ánh lên sóng bạc
Em cầm thanh gươm ánh màu thép sáng
Áo giáp bám bụi đường Em đưa tay phủi nhẹ
Trên vai tôi.
Sáng hôm sau như một đám mây đen
Binh đoàn tiến quân
Trong tấm khiên gương mặt Em hiện lên
Khuôn mặt rạng rỡ đời đời.
14 tháng Sáu 1908
______________________
*Quốc công Đmitri Đonskoi
4
Với nỗi buồn hàng thế kỷ
Những cây vũ mâu rủ cành
Bên kia sông loang mù sương
Em gọi tôi từ phía xa.
Rồi biệt tích phóng đi
Bầy ngựa nòi thảo nguyên
Niềm đam mê mãnh liệt
Dưới vành trăng liềm khuyết
Nỗi buồn xưa hàng thế kỷ
Tôi như sói dưới trăng liềm
Làm gì tôi không biết nữa
Bay phương nào tôi tìm em!
Tôi nghe thấy tiếng gươm khua
Tiếng tù và giặc Tacta
Phía xa xa nước Nga cổ
Lửa âm ỉ cháy loang xa.
Da diết trong tôi nỗi buồn
Tôi trèo lên lưng bạch mã
Thấy những đám mây vần vũ
Khoảng trời cao đêm sương mờ.
Những ý nghĩ vụt lóe lên
Trong trái tim tôi tan nát
Rồi chúng vụt tắt đột nhiên
Như bị cháy thiêu lửa đốt.
“Điều tuyệt diệu, về đi Em
Dạy tôi sống vui rạng rỡ!”
Bờm bạch mã bỗng dựng lên
Gió thổi gào qua gươm thép.
31 tháng Bảy 1908
5
Và ngày sắp tới sẽ chìm trong bóng tối
Của những bất hạnh khôn ngăn cưỡng nổi…
Vl. Solovyov
Lại trên bãi chiến trường Kulikovo
Màn sương giăng dài và loang rộng
Giống hệt đám mây mờ u ám
Trùm lấp cả ngày mai sau.
Dài lê thê phía đàng sau yên ắng
Lan rộng màn sương mờ u ám
Không còn nghe tiếng ầm ầm chiến trận
Không nhìn thấy chớp lóe đường gươm.
Nhưng tôi nhận ra Em, em là khởi nguyên
Của những ngày cao cả và binh biến!
Trại đóng quân của giặc tôi từng chứng kiến
Tiếng ngỗng trời kêu và tiếng sóng xô.
Trái tim tôi không thể sống bình yên
Những đám mây đen tụ về không phải ngẫu nhiên
Nặng nề binh giáp như trước giờ ra trận
Đến lượt Em rồi, em hãy nguyện cầu đi!
23 tháng Chạp 1908
