Nguyễn Gia Long (TP. Hồ Chí Minh)
Làng tôi nằm bên vạt bãi bồi ven con sông Hồng quanh năm ngầu đỏ phù sa, nơi có bến phà Chèm nổi tiếng đã đi vào thi ca của cố nhà thơ Huy Cận với bài: Tràng Giang, như một dấu ấn khó có thể mờ phai, nên tuổi thơ tôi cũng như bao thế hệ người của làng đều có đầy ắp những kỷ niệm về hình ảnh của những chuyến phà, những con đò nhịp nhàng đưa rước khách vượt qua sông đêm, ngày hối hả…
Ngày tôi sinh ra, cầu Thăng Long vẫn còn chưa có, mà khi đó chỉ có cầu Long Biên cách cả hơn chục km phía dưới hạ lưu của dòng sông, chính vì thế mà bến phà Chèm là nơi trung chuyển quan trọng của tất cả các phương tiện giao thông, cũng như mọi người dân từ nội thành Hà Nội tới các tỉnh phía Bắc Thủ đô và ngược lại. Vì làng tôi nằm ở ngoài sông, và chủ yếu người dân làm công việc chài lưới vãng lai tụ hội, nên nên dân làng tôi không có đất nông nghiệp để canh tác, mà sống chủ yếu nhờ vào con tôm, con cá đánh bắt dưới sông. Ngay cả cái tên làng cũng rất mộc mạc và bình dị như chính sự quần tụ của những người có cùng nghề và cảnh ngộ, đó là: Làng Chài!
Khi tôi lớn lên, gia đình tôi không còn sống bằng nghề bám vào sông nước nữa mà cha mẹ tôi đã chuyển qua kinh doanh buôn bán nông thổ sản từ vùng ven ngoại vào trung tâm nội đô. Bến phà Chèm càng trở nên gần gũi và thân quen hơn với tôi, khi năm tôi lên 9 bà nội bắt đầu mở quán bán hàng thuốc, nước cho khách chờ phà qua sông. Vì học nửa buổi nên nửa buổi còn lại trong ngày tôi thường phụ giúp nội bán hàng, và đôi khi vào những ngày nghỉ cuối tuần không phải đến trường, tôi còn thay nội quán xuyến quán hàng cả ngày, nếu như hôm đó bà có công chuyện hay đi ăn cỗ bàn gì đó!
Hàng ngày, cứ tầm 5 giờ sáng khi bến phà mở cửa đón khách cho chuyến sang sông đầu tiên, là bà nội tôi đã tất bật tỉnh giấc để dọn bàn ghế, bày biện hàng hoá. Nhiều hôm nội đánh thức tôi dậy phụ giúp dọn hàng, trong khi tôi vẫn còn ngái ngủ, hai con mắt nhập nhèm như muốn nhắm tịt lại không thể mở ra được. Khoảng thời gian đầu khi gia đình mới mở quán bán hàng, do chưa quen dậy sớm nên tôi hay đập bĩnh, cáu kỉnh, tỏ ý không muốn dậy sớm để làm giúp nội. Về sau, thấy nội già rồi mà quá vất vả nên tôi cũng luôn trở giấc ngay mỗi khi nghe thấy tiếng gọi khe khẽ: “Dậy dọn hàng giúp nội nghe con!”. Bao giờ cũng vậy, cứ bê được mấy chiếc ghế băng dài, chiếc bàn kê ngay ngắn và bày biện mấy lọ kẹo lạc, kẹo vừng, cùng mấy gói thuốc lào… xong, là tôi lại trở vào giường lăn quay ra ngủ cho đến khi mặt trời lên cao mới thức dậy, nếu như bữa đó học ca buổi chiều.
Lớn hơn chút nữa, năm vào cấp hai, do bố mẹ thường xuyên vắng nhà do công việc buôn bán từ sáng tới tối khuya mới về, và vì nữa là nội đã già yếu hơn nên tôi cùng đứa em phải thường xuyên đảm nhận công việc dọn hàng bán hàng nước. Nội tôi lúc này chỉ đóng vai phụ giúp nếu như lúc nào nội cảm thấy khoẻ khoắn thì mới ra ngồi bán hàng mà thôi. Tôi học sáng, nhiệm vụ của tôi là dọn hàng xong để em trai ngồi bán và đi học. Buổi chiều tôi lại phải thay em bán quán hàng để nó tới trường. Công việc không đến nỗi vất vả nhưng thời gian gò bó khiến nhiều lúc tôi có ý định bảo nội “dẹp” luôn cái quán trà nước ngoài bến cho đỡ mệt! Thế nhưng, khi nghĩ lại tôi thấy thu nhập từ cái quán cóc nhỏ xíu hàng ngày này là kha khá, và phần nào cũng phụ giúp được chút ít cho sự mưu sinh vất vả của bố mẹ, nên chị em chúng tôi đều cố gắng lao động chăm chỉ và miệt mài.
Công việc bán hàng có vẻ nhàm chán, buồn tẻ ấy dần cũng khiến tôi quen và ham mê, bởi tôi biết có nhiều hôm vì một lý do công việc gì đó mà không ra được bến là nhớ nao lòng hình bóng của những hành khách đợi để lên phà qua sông, hay những khách hàng thân thuộc của quán nước…; hay tiếng xình xịch nổ của máy chạy phà; rồi tiếng gọi đò muộn của khách qua sông khi phà đã đóng bến hết sau một ngày làm việc…
Vâng, tuổi thơ tôi gắn bó với bến phà này mãi cho đến năm 16 tuổi thì tôi mới theo gia đình đi lập nghiệp sinh sống ở một miền quê mới, đó là vùng đất phương Nam của đất nước, vì thế có rất nhiều những kỷ niệm về bến phà này sẽ không bao giờ có thể mờ phai trong ký ức tôi và những thành viên trong gia đình tôi… Năm tháng qua đi, sau này bến phà Chèm cũng đã đi vào dĩ vãng khi Cầu Thăng Long nối nhịp bờ vui hoàn thành vào năm 1985, và bây giờ khi nhắc đến bến phà này chắc nhiều người của thế hệ trẻ ngày hôm nay không nhiều người biết tới, song thế hệ của tôi, của nhiều người trong vùng sinh ra trước đó nữa, thì nơi này đều đã quá thân quen, bởi ai cũng đã từng có nhiều lần phải qua sông từ bến phà này.
Thi thoảng có dịp trở về thăm quê cũ, tôi vẫn luôn tần ngần dạo gót ở cãi bến phà xưa cũ, quanh quẩn nơi mà ngày xưa tấp nập người xe ngày đêm qua sông, và nhất là vị trí có cái quán nước nhỏ xinh đã góp phần ít nhiều nuôi chị em chúng tôi lớn khôn, mà lòng thấy bùi ngùi nhớ thương. Mỗi lần thăm lại chốn cũ như vậy, thường một nỗi buồn man mác thoảng qua khi những kỷ niệm, những ký ức tuổi thơ cứ hiện về như một thước phim dài bất tận quay chầm chậm. Bến phà ngày xưa không còn nữa, nhưng hình bóng của một thời tuổi thơ tôi nghèo khó lam lũ ẩn hiện bên dòng sông thì vẫn còn vẹn nguyên với đầy ắp kỷ niệm. Sự vắng lặng, im lìm của một bến phà từng một thời gian dài tấp nập đông vui đã trở thành hoài niệm…
