Phạm Tuân (Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP. HCM)
Tôi sinh ra và lớn lên tại khu vực rẻo cao cực Bắc của tổ quốc, nơi có ngút ngàn những ngọn núi điệp trùng cùng những thung sâu hun hút chạy dài tít tắp. Cũng như bao gia đình trong bản khác, gia đình tôi chọn lưng chừng núi cất nhà ở để tránh lũ dâng cao mỗi khi mưa nguồn nước dồn đổ về. Chính vì sống trên lưng chừng núi như vậy nên mọi sinh hoạt liên quan tới nguồn nước dưới thung sâu đều gắn liền với lối mòn chạy ngoằn ngoèo xuống núi.
Ông bà tôi, cha mẹ tôi, và tới thời của tôi cũng đều in biết bao nhiêu dấu chân lên lối mòn mấp mô đá sỏi dẫn từ ngôi nhà xuống thung sâu ấy, bởi nguồn nước là cực kỳ quan trong đối với sự sống của con người. Mẹ tôi kể rằng, ngay từ hồi tôi mới sinh ra, lúc vừa qua tuổi thôi nôi, thân mình đủ cứng cáp là mẹ đã bồng xuống suối để tắm rửa cho tôi. Hầu như mỗi buổi chiều tà, trước giờ cơm tối là mẹ lại bồng ẵm tôi, dẫn hai anh tôi xuống bến nước để tắm gội, giặt giũ. Lớn lên chút xíu, năm tôi bắt đầu cắp sách tới trường, mẹ cha đã để tôi hàng ngày tự đi xuống bến nước thung sâu tắm, giặt cũng như lấy nước dùng cho sinh hoạt gia đình, bởi mẹ cha phải lo toan công việc đi nương rẫy. Chính vì phải lao động sớm như thế nên người tôi dẫu nhỏ thó, nhưng vô cùng cứng cáp, khỏe khoắn. Năm qua mười tuổi, chiều cao còn chưa đủ dài bằng quả bầu dài nhất, treo lủng lẳng trên giàn trước hiên nhà, vậy mà tôi đã gần như là lao động chính hàng ngày tải nước từ dưới thung sâu lên trên bể chứa để phục vụ cho việc nấu ăn, sinh hoạt. Ngày ấy, tôi học chiều, nên cứ mỗi sớm mai, khi màn sương núi còn giăng dày đậm đặc, con chim rừng cũng vừa mới tỉnh giấc, là mẹ lại đánh thức tôi dậy để xuống núi lấy nước. Lúc này mẹ lo sửa soạn chõ xôi sắn, hay hũ ngô bung, cũng có khi là nồi mèn mén (bột ngô nấu)… để cho cả nhà ăn sáng, còn tôi thì gánh 2 chiếc lu sành nho nhỏ (ngày đó chưa có thùng xô nhựa; hay chất liệu tôn, thiếc phổ biến như sau này) xuống núi để lấy nước. Mỗi buổi sáng như thế, tôi thường gánh khoảng dăm gánh, tương ứng với chục lu nước, và đổ đầy cái bể chứa. Một đôi lu nước như thế chỉ nặng chừng vài chục ký thôi, nhưng do phải gánh lên núi cao, lại đi quãng đường khá dài nên sức nặng cứ oằn vai tôi mà giáng xuống. Dịp đầu, lúc mới tập làm quen với công việc gánh nước, do chưa quen nên đôi vai bỏng rát, đôi chân thì mỏi đến rã rời, nhiều khi tưởng không thể trụ vững. Thế nhưng, chỉ một thời gian ngắn sau, việc gánh nước trở nên quen, và vì thế mà nó cũng nhẹ nhàng, đơn giản dần. Khi tôi đã là trụ cột chính đảm nhận công việc gánh nước cho gia đình thì chỉ rất ít khi mẹ tôi phải lo toan khoản nước sinh hoạt của nhà. Mà mẹ đã đi nương, đi rừng, lo cái ăn, cái mặc cho anh em chúng tôi đã quá là vất vả rồi, nên những việc lặt vặt trong nhà tôi đều quán xuyến hết, để mỗi khi từ rẫy về mẹ không phải bận tâm nữa.
Thung sâu không chỉ là nơi mà mỗi ngày tôi thường xuống gánh nước, mà bến nước nhỏ xinh ấy còn là chốn cực kỳ thân thuộc, gắn liền đến không thể tách rời trong những năm tháng tuổi thơ tôi. Đó là, những dịp mùa hè, mỗi khi từ trường về, đi bộ qua con dốc tôi hay cùng lũ bạn trong bản ùa xuống rửa mặt cho mát mẻ, nghỉ ngơi một lát rồi mới ngược núi lên nhà. Nhiều bữa, do cuốc bộ đường xa, trời lại nắng nóng, cả bọn còn trút bỏ hết quần áo nhảy ùm xuống suối tắm và nô đùa thỏa thích. Dòng suối trong xanh mát mẻ, chỉ sâu tới độ thắt lưng người lớn, vì vậy mà nó không hề nguy hiểm đến tính mạng bọn trẻ chúng tôi, kể cả là những đứa không biết bơi. Rồi thì, cũng không thể không kể tới những đêm trăng sáng vằng vặc tôi cùng mẹ, cùng anh suống thung để giặt áo quần, chăn mền… bởi lượng nước mà tôi gánh lên bể chứa trên nhà ở lưng chừng núi thường chỉ dành cho việc nấu ăn, vì vậy tất tật những nhu cầu khác về nước như giặt, tắm thì mọi người đều xuống suối. Những phiến đá xanh rộng lớn và phẳng lì, nằm sát rìa suối là nơi mà tôi hay đề áo quần lên đó để dùng chày đập bụi bẩn trước khi mang xuống suối khỏa nước vò cho sạch.
Tuổi thơ tôi cũng có biết bao nhiêu là kỷ niệm đẹp đẽ, khó quên bên bến nước nơi thung sâu quê nhà, khi những chiều, những sáng cùng bè bạn mang cần xuống suối câu cá. Những buổi đi câu như thế, không được nhiều thì cũng được dăm, bảy con cá bống suối, chứ không mấy khi phải mang giỏ về không, và mỗi khi tôi đi câu như vậy thì cả nhà lại có một bữa tươi, khi những con cá ấy có thể chế biến thành món kho, món canh nấu chua cùng khế, hay quả dọc rừng có vị chua thanh mát. Cũng có những hôm, không dùng cần để câu, thì chúng tôi lại đi dọc theo con suối để dùng tay bắt cá. Nước suối trong veo, có thể nhìn thấy cả những con cá đang tung tăng bơi lội, nhưng việc bắt được chúng cũng không phải dễ dàng, vì thấy bóng người, thấy nước động là những con cá nhanh nhảu chui tọt, ẩn nấp vào khe đá hay hang sâu. Vì vậy mà phải rất có kinh nghiệm chúng tôi mới tóm được những con cá tinh ranh…
Bến nước nơi thung sâu dưới khe núi khi bước vào những ngày tháng của mùa lũ cũng mang tới cho tôi nhiều kỷ niệm và cảm xúc buồn, vui lẫn lộn. Đó là những hôm mưa tầm tã cả mấy ngày trời, nước từ đầu nguồn đổ về, nước từ các đỉnh núi, khe nhỏ dồn xuống, khiến cho những phiến đá dưới bến nước ngập sâu. Nước dâng cao đến cả lưng chừng núi, nước hung dữ cuồn cuộn chảy cuốn phăng, kéo theo bao vật dụng, cây cối… Và có nhiều hôm lũ qua đi, nước rút cạn, tôi không thể cầm được nước mắt mình khi thấy một xác người bị lũ cuốn trôi mắc vào gốc cây nơi khe đá. Những lúc như thế, bến nước nơi thung sâu trở nên tang tóc bởi tiếng khóc nỉ non của những người thân trong gia đình người chết khi họ tìm thấy thi thể của người xấu số…
Thung sâu thân thuộc và gắn liền với hết thảy nếp sinh hoạt qua mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm như thế, nên chẳng có gì lạ khi xa nó, để tới thành phố học tập cho tương lai rạng ngời ở phía trước, tôi luôn nhớ về chốn yên bình nơi quê nhà như thế. Mỗi khi có dịp trở về quê thăm mẹ cha, thăm bản làng là tôi lại ùa xuống bến nước thung sâu để vỗ nước mát lành vào mặt, và tìm lại chút kỷ niệm của những tháng ngày ấu thơ sống nơi núi rừng dấu yêu…
