Đại tá Nguyễn Văn Hồng (Ghi Chép)
Cuối tháng 3 năm 2025 nhằm vào tháng 2 năm Ất Tỵ, ở miền Bắc là tháng thứ hai của mùa Xuân, mọi người ra đường phải mặc áo ấm, nhưng Sài Gòn thì vẫn nóng 34-35 độ C. Sáng nay, tôi dậy sớm hơn mọi ngày để đi ra điểm hẹn là Trạm khách T67 thuộc quân khu 7.
Năm nay, Hội Cựu Chiến Binh (CCB) quân tình nguyện Mặt Trận 479 (MT479) khu vực Hà Nội tổ chức chuyến thăm lại chiến trường xưa. Các anh chọn đi cuối tháng 3, về đầu tháng 4 có ý nghĩa nhân dịp thành lập MT479 và cũng phù hợp với khí hậu ở đất nước Chùa Tháp là đón tết Chon Ch’Nam Thơ mây, trước khi bước vào mùa mưa. Từ trung tuần tháng 2, tôi đã được Chủ tịch Hội Hữu Nghị Việt Nam – Campuchia cựu quân tình nguyện MT479 khu vực Hà Nội, đại tá Nguyễn Xuân Hà thông báo và mời đi với đoàn.
Chuyện qua lại giữa hai nước giờ đây rất dễ dàng, chỉ cần có hộ chiếu là có thể lên những chuyến xe từ thành phố Hồ Chí Minh đi Ph’nôm Pênh. Trong những năm qua cũng đã có nhiều nhóm, đoàn CCB trở lại chiến trường, đến những nơi có dấu chân họ để lại, thắp nén nhang tưởng nhớ đến những đồng đội đã hy sinh. Nhưng lần này, các anh tổ chức rất bài bản và chu đáo vì số người tham gia đông, hầu hết đã qua một thời khốc liệt trên đất nước Campuchia giúp bạn xây dựng lại tất cả từ con số “0”, chủ yếu là anh em Sư đoàn 302, Sư đoàn 309 và một số đơn vị trực thuộc. Trong đoàn còn có cả các phu nhân và người thân. Để bảo đảm an toàn và tính pháp lý cho chuyến đi, các anh tổ chức đi theo đường ngoại giao, thông qua Đại Sứ Quán (ĐSQ) quan hệ với chính quyền và các đơn vị Lực Lượng Vũ Trang (LLVT) Hoàng Gia Campuchia trên suốt lộ trình. Tôi nói với đại tá Nguyễn Xuân Hà: “Có lẽ thế hệ chúng ta, nhiều người trong chuyến đi này sẽ là chuyến cuối cùng trở lại chiến trường xưa, nên cố gắng đến hết những địa danh mang tính lịch sử thuộc MT479!”. Anh Hà đồng quan điểm với tôi và nói: “Sẽ đi hết!”.
Sau rất nhiều ý kiến trao đổi qua lại hàng tháng trời, cuối cùng cũng đã thống nhất được lịch trình của chuyến đi từ ngày 25 – 03 đến 04 – 04 – 2025 do đại tá Bùi Tiến Dũng dự thảo như sau:
– Ngày 25-3: Sáng từ Hà Nội bay vào thành phố Hồ Chí Minh. Chiều vào chào Bộ Tư lệnh quân khu 7.
– Ngày 26-3: Sáng về thăm Sư đoàn 302 tại huyện Cẩm Mỹ tỉnh Đồng Nai, chiều thăm sư đoàn 309 tại căn cứ Long Bình, thành phố Biên Hòa.
– Ngày 27-3: Sài Gòn – Ph’nôm Pênh, trên đường ghé tỉnh Tây Ninh viếng Nghĩa Trang Liệt Sỹ (NTLS).
– Từ ngày 28-3 đến chiều 3-4 là thời gian chính thức thăm lại chiến trường xưa trên đất nước chùa tháp.
Tôi kéo chiếc va ly có bốn bánh xe phía dưới bước lên taxi đến điểm hẹn, lòng ngổn ngang những cảm xúc. Còn nhớ, năm 2015, phần nhiều anh em trong đoàn này cũng đã trở lại chiến trường. Được biết chuyến đi ấy, cũng phần nhiều là anh em sư 302, do thiếu tướng Hai Phê làm đoàn trưởng, Hồ To làm phó Đoàn, mục đích là để hoàn thiện bộ phim về Mặt trận 479. Làm phim về MT479 thì không thể không đến địa bàn tỉnh Bát Tam Băng xa xôi và ác liệt, mà Bát Tam Băng là chiến trường quen thuộc trong 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế của sư đoàn 309. Vì vậy các anh tha thiết mời tôi tham gia. Những địa danh mà tôi quan tâm nhất là Cao mê lai – Com Riêng – Pailin – Tà Sanh. Lần ấy, có điều gì đó khiến tôi từ chối, không đi cũng tiếc. Kể từ chuyến đi đó, nay cũng đã gần 10 năm. Riêng tôi, lần đầu tiên cùng đoàn cán bộ cao cấp cựu quân tình nguyện Việt Nam thuộc MT479 và 779 trở lại đất nước chùa tháp là năm 2005 theo lời mời của thủ tướng Hun Sen, chuyến đi này không đến tỉnh Bát Tam Băng. Như vậy, nếu chuyến đi hôm nay theo lộ trình thì với tôi cũng đã hơn 20 năm rồi, không bồi hồi sao được.
Chân run run bước lên chiếc xe ca, có 40 người đang ngồi trên đó. Tôi vui mừng nhận ra, hầu hết là anh em đã cùng chung chiến hào năm xưa. Mặc dù đại tá Bùi Tiến Dũng đã gửi danh sách, thấy phần nhiều tôi đã được gặp trong những lần họp mặt CCB ở Hà Nội, như đại tá Nguyễn Xuân Hà, đại tá Lê Cường, đại tá Đinh Công Hợp và nhiều đồng chí khác, nhưng lần này, trên xe có các phu nhân như “nồi canh rau rừng có thêm bột ngọt”, khiến chân dung các ông tươi tỉnh hẳn lên. Tôi nói với các cô, các bà: “Ngày xưa, chúng tôi chiến đấu ở chiến trường, không biết được, hay nói đúng hơn không được biết các bà ở nhà đi những đâu, làm những gì, hôm nay các bà đi để biết chúng tôi ăn bo bo đánh giặc như thế nào!…”. Ngoài số anh em, như tôi thường nói với đại tá Lê Cường là “Anh em cùng cha, khác mẹ”, cùng cha nghĩa là cùng thuộc BTL MT479, khác mẹ tức là thuộc các đơn vị dưới Mặt trận, như Sư đoàn 302, 309 và các trung đoàn trực thuộc, nay có thêm trung tướng Lê Minh Cược, nguyên Chính ủy quân khu 2 đóng vai trưởng Đoàn , thiếu tướng Nguyễn Tiến Ngùng, nguyên Tham mưu trưởng quân khu thủ đô, người đã từng thân thiết với tôi tròn nửa thế kỷ và hai vị tướng này cũng đã làm nhiệm vụ quốc tế tại chiến trường Campuchia. Lại được nghe thông báo có cả doanh nhân Nguyễn Như Ý và phu nhân tham gia, nhưng cuối cùng Như Ý vắng mặt, chỉ có phu nhân Nguyễn Thị Bích Thủy đi với Đoàn.
Dưới đây xin lược ghi các hoạt động của Đoàn trong 10 ngày để chúng ta (Đoàn CCB Mặt trận 479 khu vực Hà Nội) có thể lưu giữ lại những kỷ niệm của những ngày trên đất Bạn chuyến đi này:
Ngày 25-3: Sau khi đặt chân xuống sân bay Tân Sơn Nhất (TSN), ngay chiều hôm ấy được tư lệnh quân khu 7 tiếp và chiêu đãi Đoàn. Tôi thầm nghĩ: Đúng là một quân khu nghĩa tình của một thành phố Nghĩa tình. Được biết, tư lệnh quân khu đã có chỉ thị cho cơ quan và các sư đoàn 302, 309 chuẩn bị đón tiếp Đoàn thật tốt, dành cho Đoàn những tình cảm thật đặc biệt khi được biết Đoàn sẽ đi thăm hai sư đoàn chủ lực của quân khu cũng là hai sư đoàn trước đây thuộc MT479.
Cũng cần có đôi dòng về “gốc gác” của hai sư đoàn này, vì sao hai sư đoàn từ hai mặt trận Đông bắc và Tây bắc Campuchia nay là hai sư đoàn bộ binh thuộc quân khu 7. Trước hết, hai sư đoàn được thành lập từ yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ quốc tế đối với nước láng giềng Campuchia. Ngày 16-12-1977 sư đoàn 302 được thành lập tại huyện Lộc Ninh tỉnh Bình Phước thuộc quân khu 7. Ngày 27-9-1978, sư đoàn bộ binh 309 thuộc quân khu 5 được thành lập tại thị xã Buôn Ma Thuột. Sau cuộc tổng phản công chiến lược của các binh đoàn chủ lực quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia, chính quyền của chế độ diệt chủng Pôn Pốt tại thủ đô Ph’nôm Pênh sụp đổ. Ngày 14 – 4 – 1979 MT479 được thành lập. Sư đoàn 309 được điều động sang tỉnh Bát Tam Băng, sư đoàn 302 tiến lên Xiêm Riệp. Từ đó, hai sư đoàn đã trở thành hai trong 4 sư đoàn thuộc MT479 quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ quốc tế, rút quân về nước, sư đoàn 302 vẫn là sư đoàn thuộc quân khu 7. Sư đoàn 309 vào biên chế chính thức của quân đoàn 4. Lịch sử đã sang trang, nhà nước khởi xướng cuộc cách mạng về sáp nhập, điều chỉnh lại địa giới hành chính trên phạm vi cả nước, đây là một xu thế của thời đại, quân đội không là ngoại lệ. Quân đoàn 4, đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử, chính thức giải thể vào ngày 20 – 7 – 2024 để sáp nhập với quân đoàn 3, mang phiên hiệu lịch sử là quân đoàn 34. Sư đoàn 309 trở thành sư đoàn chủ lực thuộc quân khu 7 từ đó.

Ngày 26-3:
Tại sư đoàn 302: Đây là lần đầu tiên tôi được đến Sở Chỉ Huy (SCH) sư đoàn đóng tại huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai. Nếu không có dịp này thì có lẽ mãi mãi không biết được nơi đóng quân của sư đoàn mà tôi nói với chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam – Campuchia, Phó trưởng đoàn, đại tá Nguyễn Xuân Hà rằng sư đoàn 302 với sư đoàn 309 là anh em “cùng cha khác mẹ”. Trong những năm làm nhiệm vụ quốc tế, đã có lần sư 309 được tăng cường trung đoàn 271, là một trung đoàn mạnh của sư 302. Tôi đã có thiện cảm với trung đoàn này lúc đồng chí Thảo làm trung đoàn trưởng từ mùa khô năm ấy, vừa đến tăng cường cho tôi hôm trước, hôm sau đã lập được chiến công liền. Tại phòng thờ, đồng chí Chính ủy sư đoàn cho biết Sư đoàn 302 có tổng cộng 11.696 liệt sỹ, trong đó hy sinh tại chiến trường Campuchia là 3.814 người. Tôi nhẩm tính một phép nhân, trong người nổi cả da gà, không biết dùng từ nào để thay cho cảm xúc của mình trước sự mất mát quá lớn của một sư đoàn bộ binh.

Buổi chiều Đoàn đến thăm sư đoàn 309. Sự quan tâm của tư lệnh quân khu 7 đã được thể hiện đầy đủ tại hai sư đoàn này. Về với sư đoàn, nơi tôi đã từng là sư trưởng, sự rung động của trái tim là tất nhiên rồi, nhưng tôi vẫn đặt mình là một thành viên của Đoàn. Có mấy đồng chí gọi tôi: “Anh Hồng ơi, trong phòng truyền thống thấy có mấy hình ảnh của anh!”, tôi làm như không nghe, nhưng lòng cảm thấy lâng lâng một chút tự hào…

Mỗi khi đến thăm một đơn vị, bao giờ cũng thực hiện một “quy trình” thống nhất: Thắp nhang tại phòng thờ liệt sỹ, tham quan nhà truyền thống, gặp mặt cán bộ, chỉ huy đơn vị, chụp ảnh, tặng quà lưu niệm và cuối cùng là chiêu đãi. Tại phòng thờ tôi cũng hỏi đồng chí Chủ nhiệm chính trị tổng số liệt sỹ của sư đoàn 309. Tôi chỉ là một đời sư trưởng sư đoàn này nên không thể biết tổng số liệt sỹ là bao nhiêu, đồng chí cho biết: Danh sách có 7.878 liệt sỹ, riêng hy sinh tại Campuchia là 3.479 người. Tuy không phù hợp nhưng tôi vẫn làm một phép tính để so sánh số liệt sỹ ở sư 302 với 309 hy sinh tại Campuchia, từ đó suy nghĩ về nguyên nhân của sự chênh lệch đến 335 người là do đâu…
Ngày 27-3:
Ngày đầu tiên của cuộc hành trình là đến viếng nghĩa trang liệt sỹ Đồi 82 Tân Biên, Tây Ninh: Tây Ninh là một trong những tỉnh dọc biên giới Tây nam, giáp với Campuchia, có nhiều nghĩa trang liệt sỹ, hầu hết được chuyển về đây trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới và những năm làm nhiệm vụ quốc tế, cho nên ở đây được gọi là “Nghĩa Trang Quốc Tế”.



Ngoài nghĩa trang tỉnh Bình Dương và Nghĩa trang Tây Ninh nói chung, Đồi 82 nói riêng, phần nhiều liệt sỹ thuộc quân đoàn 3 và MT479 về hội tụ tại đây, hầu như đơn vị nào cũng có. Đoàn CCB bước vào nghĩa trang, khuôn mặt ai cũng suy tư, miệng mím chặt, nhiều người chớp mắt, nhất là các phu nhân. Hàng hàng, lớp lớp những ngôi mộ cùng một khuôn mẫu, có tên và không tên, “đội ngũ chỉnh tề” như đang chuẩn bị “diễu binh về cõi vĩnh hằng”, những người đã viết nên trang sử bằng máu của quân đội ta trong cuộc chiến tranh biên giới tây nam và làm nhiệm vụ quốc tế, Họ đã hoàn thành nhiệm vụ và thanh thản về nơi yên nghỉ cuối cùng. Dưới cái nắng bỏng rát, Đoàn CCB, mỗi người một nắm nhang đi cắm lên mộ các Anh hùng, liệt sỹ. Đại tá Nguyễn Xuân Hà thay mặt Đoàn đọc bài viếng hương hồn các liệt sỹ đã được chuẩn bị từ tối hôm trước, với lời văn và giọng đọc làm nhiều người không cầm được nước mắt…
Nhân dịp viếng nghĩa trang liệt sỹ lần này, trên đường đi, ngồi trong xe anh chị em trong Đoàn được nghe câu chuyện đi tìm đứa em trai hy sinh tại chiến trường của thiếu tướng Nguyễn Tiến Ngùng đã được đưa vào một trong những nghĩa trang liệt sỹ tỉnh Tây Ninh, câu chuyện có yếu tố tâm linh ly kỳ, cảm động vừa tình cảm anh em ruột thịt, vừa nghĩa tình đồng chí, đồng đội. Chuyến xe tiếp tục hành trình đưa Đoàn đến thủ đô Ph’nôm Pênh.
Ừ! Đã trên 45 năm rồi đấy nhỉ. Nhiều người trong Đoàn, đây là lần đầu tiên trở lại chiến trường xưa. So với lịch sử đã “Ba lần gắn bó với đất nước chùa tháp” (Tên cuốn hồi ức của cố thiếu tướng Phùng Đình Ấm) chưa phải là dài lắm, nhưng với một đời người, nhiều anh ra đi, lúc tuổi 20 nay tóc đã điểm bạc, nhiều người trong số họ không được may mắn chứng kiến sự thay đổi, vươn lên thật kỳ diệu từ con số “0” sau cuộc chính biến ngày 07 – 01 – 1979 của đất nước này. Ngày ấy, tôi ở Mặt trận Đông bắc, trên một hướng chiến dịch tổng tiến công vào sào huyệt kẻ thù ở thủ đô Ph’nôm Pênh.
Sông Niết Lương, một trong chín “con rồng” lấp loáng phía trước. Từ hàng thế kỷ, để đến Nam Vang phải đi bằng phà, nay là chiếc cầu bê tông hiện đại, người xe qua lại tấp nập dưới ánh nắng chói chang của vùng nhiệt đới. Trên đường, mọi người bàn tán xôn xao. Càng đi sâu vào nội địa Campuchia, nhất là khi qua cầu đến thủ đô, ai cũng trầm ngâm như đang tập trung suy nghĩ một điều gì đó thật vĩ đại của một quốc gia đang tràn đầy sức sống để vươn lên. Thực lòng, tôi cũng rất mừng, sự hy sinh của chúng ta cho nước láng giềng thật đau đớn nhưng không uổng chút nào. Thủ đô Ph’nôm Pênh đã hiện ra trước mặt, xe chúng tôi bị hút vào đất nước chùa tháp, như chiếc thuyền hòa vào dòng chảy của người và xe đang cuồn cuộn đổ ra đại dương.
Đi trên chiếc cầu bê tông bắc qua sông Mê Kông, lòng rạo rực trước sự vĩ đại của con người là không giới hạn. Cũng trên dòng sông này, cuộc tổng tiến công trên hướng chủ yếu giải phóng Ph’nôm Pênh, cả sư đoàn 341 vượt qua dưới làn đạn pháo của địch, cũng chẳng cần phải nói đến mức độ ác liệt của cuộc vượt sông khi bên kia, trên bờ là địch, máu chảy đầu rơi là không thể tránh khỏi. Qua cầu, tôi hỏi người dẫn đường: “Trước đây có chiếc cầu mang tên “Cầu Sài Gòn giữa thủ đô Ph’nôm Pênh, nay ở đâu?!”. Tôi được trả lời: “Thì xe chúng ta đang chạy trên cầu đó!”.
Ngay buổi chiều hôm đó, Đoàn đến thăm có tính xã giao, như là một thủ tục trình diện Đại Sứ Quán Việt Nam tại Campuchia. Vào đây chúng tôi có cảm giác như về nhà mình ở Việt Nam vậy. Nhớ lại lần sang thăm năm 2005, lúc đồng chí Lại Xuân Chiến đang là Tham Tán Công Sứ Đại Sứ Quán, tôi nói với Nguyễn Xuân Hà: “Lần trước mình vào đây, nhìn cái cổng chẳng ai nghĩ đây là Đại Sứ Quán của một quốc gia ở nước ngoài!”. Hà cho biết: “Đây là vị trí mới!”. Thì ra là thế.

Đến đây, kết thúc ngày đầu tiên trong cuộc hành trình. Chúng tôi nhận phòng khách sạn đẳng cấp “5 sao”. Thật choáng ngợp, tầng dưới cùng như một mê cung mỗi lần đi qua những sòng bài casino để lên các tầng trên. Tôi nghĩ đâu dễ gì được vào một khách sạn như vậy nếu không đi theo đường ngoại giao, cả đoàn ở lại đây ba đêm phải là tiền tỷ. Thế mới biết công tác đối ngoại của Ban Chấp Hành (BCH) Hội Hữu Nghị Việt Nam – Campuchia và vị thế của Hội CCB MT479 khu vực Hà Nội đối với chuyến đi này quan trọng đến nhường nào, hiếm có một Đoàn CCB Việt Nam được ưu ái thư thế nếu không thuộc diện khách mời của quân đội và nhà nước Campuchia.
Ngày 28-3: Là một ngày bận rộn, hoạt động hết công suất với nhiều sự kiện đặc biệt diễn ra tại thủ đô Ph’nôm Pênh:

Trước khi vào yết kiến Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng (BQP), Đoàn đến viếng “đài tưởng niệm” ở trung tâm thủ đô. Đi giữa đội quân nhạc hoành tráng vào thắp nhang dưới tượng đài, lòng bồi hồi xúc động. “Bốn mươi trái tim” của bốn mươi thành viên Đoàn thổn thức như đang thầm thì với các anh hùng liệt sỹ: chúng tôi đã đến với các anh, thay mặt cho hàng vạn cựu chiến binh trong cả nước, cầu mong các anh thanh thản ở cõi vĩnh hằng. Chúng tôi sẽ tiếp tục làm hết sức mình vì sự nghiệp của các anh để lại (!)…

Tiếp đó, Đoàn vào thăm Bộ trưởng BQP. Bộ trưởng Tia Banh đi vắng, tiếp Đoàn chúng tôi là ngài Đại tướng Quốc vụ khanh Bộ Quốc Phòng Campuchia Cheang Am cùng với cán bộ cao cấp cơ quan BQP. Tại đây tôi được gặp lại đại tướng Tổng cục trưởng Tổng cục dịch vụ quốc phòng thuộc Tổng Cục Chính Trị Mia Sa Won. Những năm sư đoàn 309 chúng tôi chiến đấu tại Pailin, Ông là chính ủy sư đoàn 196 (1981 – 1985). Đại tướng với tôi nói chuyện nhiều về sư đoàn 196 chiến đấu bên cạnh sư đoàn 309. Tôi còn nhớ và nói với Đại tướng: người sư trưởng đầu tiên của sư đoàn 196 là Nhất Huôn. Sau khi Nhất Huôn lên Phó tổng tham mưu trưởng quân đội cách mạng Campuchia thì Côi Bun Tha, một người được sư đoàn 309 chúng tôi giúp đỡ trưởng thành, lên thay. Khi Côi Bun Tha lên Bộ trưởng BQP thì tỉnh trưởng tỉnh Bát Tam Băng Keo Kim Giang thay Côi Bun Tha, và cứ thế, cuối cùng Keo Kim Giang là Tổng tư lệnh các LLVT Hoàng Gia Campuchia. Lúc tham quan bảo tàng Hun Sen, tôi nhận ra hình ảnh Đại tướng Keo Kim Giang và nhiều tướng lĩnh khác trưng bày tại bảo tàng ở thủ đô Ph’nôm Pênh. Nếu như lần này tôi được gặp Đại tướng thì có nhiều chuyện để hàn huyên với Ông, bởi thời kỳ Ông làm tỉnh trưởng tỉnh Bát Tam Băng, giữa hai chúng tôi có nhiều kỷ niệm. Tiếc rằng lần này Đại tướng Keo Kim Giang không thấy xuất hiện.
Buổi gặp mặt thực sự là cuộc hội ngộ của những người bạn chiến đấu, tuy Đoàn chúng tôi chỉ là Hội CCB MT479, nhưng cũng có thể nói đây là cuộc gặp mặt mang biểu tượng về tình hữu nghị giữa hai quân đội Việt Nam – Campuchia/ Campuchia – Việt Nam.

Đại tướng, Quốc vụ khanh Bộ Quốc phòng Campuchia Cheang Am khẳng định, nhân dân và Quân đội Hoàng gia Campuchia không bao giờ quên công ơn trời biển của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Chiều 28-3, Đoàn được Phó chủ tịch Đảng Nhân Dân Campuchia (CPP), Chủ tịch Hội hữu nghị Campuchia – Việt Nam, bà Men Som On đón tiếp. Đến 16 giờ Đại tướng Kun Kim Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội CCB Campuchia tiếp thân mật tại trụ sở. Một điều làm cho chúng tôi vô cùng cảm động là sự chân thành không chỉ ở BQP mà Bà Mensomon và Đại tướng Kun Kim đều cùng một quan điểm nhất quán về sự hy sinh to lớn của quân tình nguyện Việt Nam là không gì có thể bù đắp được. Chúng tôi thật sự cảm phục những người đứng đầu nhà nước và quân đội Hoàng Gia Campuchia vừa có tâm, vừa đúng tầm. Bà Men Som On đã nói đến lịch sử của Đảng Cộng Sản Đông Dương, tiền thân của Đảng CPP và Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày nay. Từ thủ tướng Hun Sen, nay là chủ tịch thượng viện, đến đội ngũ cấp tướng và sỹ quan cao cấp của quân đội và cơ quan tối cao của nhà nước đều phát biểu đại thể là “Quân đội và nhân dân Việt Nam đã sinh ra đất nước Campuchia lần thứ hai. Nếu không có ngày 07 tháng 01 năm 1979 thì không có Campuchia như ngày hôm nay. Chúng tôi mãi mãi ghi nhớ, không bao giờ quên và có trách nhiệm truyền thụ lại cho các lớp mai sau (!)…”


Ngay từ khi được thông báo về kế hoạch gặp mặt các vị lãnh đạo Đảng, quân đội và nhà nước Campuchia, thấy có buổi gặp Đại tướng Kun Kim, trong tôi lóe lên một ý định sẽ trao tặng đại tướng tấm hình đã được phóng to 30 x 40cm, hình ảnh tôi chụp chung với Đại tướng cách nay trên 20 năm. Hay lắm! Đây là điều rất thú vị không những với cá nhân tôi mà còn mang ý nghĩa đặc biệt đối với Đoàn trong chuyến đi này. Bởi Đại tướng đang là Phó chủ tịch kiêm tổng thư ký Hội CCB Campuchia, một tổ chức rất gần gũi và đồng cảm với chúng ta. Ông đang rất cần những tư liệu về MT479 và có ý muốn gần gũi hơn với Hội CCB chúng ta. Đúng ý muốn của tôi rồi, vì vậy sau khi trưởng Đoàn, trung tướng Lê Minh Cược và Phó trưởng Đoàn, đại tá Nguyễn Xuân Hà trao tặng quà lưu niện, tôi được thực hiện ý nguyện của mình, ngoài tấm hình chụp chung với Đại tướng Kun Kim, tôi còn tặng Ông cuốn hồi ức “Cuộc Chiến Tranh Bắt Buộc” đã được dịch sang tiếng Anh và phát hành trên toàn cầu, trong cuốn sách ấy có nhiều điều tôi biết Đại tướng đang rất cần.

Trao tặng Đại tướng tấm hình, tôi ngước lên nhìn Ông:
– Trong cuối những năm 80 của thế kỷ 20, tôi làm chuyên gia (Thơ chầm miên ca) cho sư trưởng sư đoàn 179 quân khu 4. Trong một lần trở lại thăm chiến trường xưa, tôi có vinh dự được chụp chung với Đại tướng tấm hình này lúc Đại tướng đang là Phó tổng tư lệnh các LLVT Hoàng Gia Campuchia và là Chủ tịch Hội đồng cố vấn của thủ tướng Hun xen. Tôi đã nâng niu, trân trọng và giữ gìn tấm hình này 20 năm, 2 tháng, 9 ngày. Nay tôi xin trao lại Đại tướng và rất mong Đại tướng cũng nâng niu, trân trọng và giữ gìn 20 năm, 2 tháng, 9 ngày tiếp theo. Tôi kính chúc Đại tướng và gia đình mạnh khỏe, hạnh phúc. Chúc mối quan hệ hữu nghị Việt Nam – Campuchia / Campuchia – Việt Nam tiếp tục được củng cố và phát triển! – Nói xong câu ấy, tôi như người nông dân vừa cày xong một thửa ruộng, lòng cảm thấy lâng lâng…
Sực nhớ đến món quà là cuốn sách, tôi nói tiếp: “Những yêu cầu của Đại tướng về tư liệu của MT479 thì trong cuốn sách này có nhiều nội dung sẽ đáp ứng một phần mong muốn của Đại tướng!”. Ông cầm món quà vui mừng nói lên mối quan hệ gần gũi giữa Hội CCB Campuchia với Hội CCB MT479 Khu vực Hà Nội và mong muốn có dip sẽ sang thăm ký kết chương trình hoạt động giữa hai Hội.
Ngày 29-3:
Sáng 29-3, đúng vào ngày thứ 5 của cuộc hành trình thăm lại chiến trường xưa, Đoàn chúng tôi tham quan “Bảo tàng Hun Sen” tại thủ đô Ph’nôm Pênh. Tòa nhà không lớn lắm, chỉ có một tầng tọa lạc trong một khuôn viên rộng lớn. Không biết diện tích bao nhiêu, nhưng điều đó không quan trọng, bởi bảo tàng của một nguyên thủ quốc gia như Hun Sen thì muốn rộng bao nhiêu chả được. Cái quan trọng là các hiện vật bên trong. Đoàn chúng tôi đi bộ dưới cái nắng gay gắt, có người phải chạy bộ gần cả trăm mét qua cái sân rộng, lát gạch đá granit vào tiền sảnh. Tôi với mấy người bám theo người quản lý bảo tàng để hỏi đủ điều. Trước hết là pho tượng giữa sân, cạnh lối đi, là một người lính. Hình như người người quản lý hiểu được những băn khoăn của chúng tôi về pho tượng nên cho biết: đó là biểu tượng của người lính bên kia buông súng, về hòa hợp dân tộc Campuchia. Một ý tưởng hay, tôi nghĩ vậy.
Cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam không là ngoại lệ. Ở Nga, các đời tổng thống đều được dựng tượng, dù có người có sai lầm về đường lối làm sụp đổ hệ thống XHCN, đó là sự tôn trọng về lịch sử. Ở ta cũng có nhà bảo tàng của nhiều vị tiền bối. Với bảo tàng Hun Sen ở Campuchia, tôi cho rằng rất cần. Hun Sen là một nguyên thủ quốc gia, đã có công lớn khi thoát khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt để đi tìm đường cứu nước. Như một nhà báo quốc tế đã nói: đây là cơ hội vàng (!), tôi nghĩ bảo tàng này không những đối với Hun Sen mà còn rất cần đối với Việt Nam. Không hề sai, trong chuyến đi lần này, một số vị lãnh đạo đảng, nhà nước và quân đội Hoàng gia Campuchia đã nói rằng “Chúng ta giúp đỡ nhau!”. Toàn bộ hành trình tìm đường cứu nước của thủ tướng Hun Sen đã được phác họa một cách khá đầy đủ bằng hình ảnh, bằng hiện vật. Nơi đây còn trưng bày chiếc xe con 4 chỗ ngồi, màu trắng, là chiếc xe được Việt Nam tặng sau khi Hun Sen chạy sang Việt Nam yêu cầu giúp đỡ.

Một địa chỉ khác không thể không đến đối với Đoàn trong chuyến đi này – Nhà tù Tuol Sleng. Nhà tù của chế độ diệt chủng Pôn Pốt hầu như cả thế giới đều biết qua hệ thống truyền thông đại chúng và nhiều du khách quốc tế đến chứng kiến trực tiếp khi du lịch đến Campuchia nên tôi không nêu lên những tư liệu rùng rợn về cái chết của hàng triệu nạn nhân tại nhà tù này. Tôi quan tâm đến hai nhân chứng, được quân tình nguyện Việt Nam cứu sống trong hai hình ảnh dưới đây:
– Một là người đàn ông nay đã 94 tuổi trông vẫn khỏe mạnh, đang ngồi bán sách gần cửa trong khuôn viên nhà tù. Ông là nhân vật của cuốn sách do một tác giả nước ngoài viết và xuất bản.
– Hai là người đàn ông được in lên bìa của một cuốn sách khác, người này đang chỉ mình, một trong hai đứa trẻ được bộ đội Việt Nam bế ra khỏi nhà tù tháng 10 năm 1979. Hiện người này cũng đang ngồi bán sách như ông già 94 tuổi trong ảnh trên.


Tôi muốn hỏi hai “nhân chứng sống” nhiều điều mà không biết tiếng Campuchia, nhưng chỉ nhìn qua các hình ảnh trong nhà tù chúng ta cũng có thể hiểu ra tất cả, nên tôi đã mua cho ông già một cuốn sách.
Ngày 30-3: Đoàn rời thủ đô Ph’nôm Pênh đến tỉnh Bát Tam Băng lòng tràn đầy cảm xúc và lưu luyến. Cung đường này khá dài, trên 300km, những địa điểm cần đến trong ngày này là qua thành phố Bát Tam Băng (trước đây là một trong ba thành phố lớn của đất nước Campuchia: Ph’nôm Pênh, Xiêm Riệp và Bát Tam Băng), lên Pailin – Com Riêng – Cao mê lai – Pôi Pét – Si Sô Phôn.
Thấm mệt là khó tránh khỏi nhất là chị em và những người lớn tuổi như tôi, nên Đoàn có sáng kiến là khuyến khích kể chuyện hoặc ca hát. Đại tá Lê Cường, nguyên là Phó cục trưởng cục tuyên huấn Tổng Cục Chính Trị (TCCT), nguyên cán bộ chính trị sư đoàn 302 là một cây văn nghệ cừ khôi, nhiều người trong Đoàn còn gọi anh là “Tổng thống hề”, ý nói về vị tổng thống nước Ukraina trước đây là một diễn viên hài. Ban tổ chức của Đoàn, đứng đầu là đại tá Nguyễn Xuân Hà, từ đầu đã có sự phân công một số thành viên đảm nhiệm một số công việc: Mai Xuân Tôn phụ trách về hậu cần, thực sự là một vị trí vô cùng cần thiết, như việc lo cơm áo gạo tiền cho bộ đội trong chiến đấu, Xuân Tôn tất bật với công việc đến nỗi phải ăn cháo mấy bữa, mọi người đều gửi gắm tất cả tình cảm quý mến vào anh. Đại tá Bùi Tiến Dũng là tác giả của bản kế hoạch và cùng với Văn Khắc Hòa điều hành các hoạt động, gọi là “đối nội”, Đại tá Trần Minh Tiến làm “phó nháy” chụp hình, quay camera. Đại tá Lê Cường “phụ trách” văn nghệ. Suốt quá trình, anh này đã tỏ ra là một cựu cán bộ tuyên huấn xuất sắc, đặc biệt là có một trí nhớ tuyệt vời, những thiên trường ca bất hủ, những câu chuyện hài từ thời cổ kim, đông tây, Cường có thể kể hay đọc thơ hàng tiếng đồng hồ không quên một từ, trong đó có bài thuyết minh cho bộ phim “Cây tre Việt Nam” của Thép Mới từ những năm 60 của thế kỷ 20, học sinh phải học thuộc lòng. Tôi rất thích và tôi vẫn nhớ nhiều đoạn bài “Cây tre Việt Nam” nhưng không nhớ hết cả bài này như Lê Cường. Đặc biệt, Cường có lối kể hấp dẫn khiến ai cũng bị cuốn hút vào câu chuyện, thấy nhiều người nhắm mắt, gật gù không biết họ đang ngủ hay lắng tai nghe: lúc rỉ rả, khi thầm thì, hoặc đang im lặng một lúc rồi đột nhiên hét lên với giọng cười “man dại như một tay đang cuồng say”. Hành trình đường dài có một tay như Lê Cường thì đường đi như ngắn lại, mà thật sự không đủ thời gian cho Lê Cường “trổ hết tài”. Một điều tôi thầm nghĩ là sự chỉ đạo của các anh thật là tỉ mỉ và toàn diện từ việc phân công như trên, kể cả ai bưng bê cái khay đựng quà tặng, ai được thay mặt Đoàn phát biểu, trả lời phỏng vấn, ai được là người giới thiệu với bạn về thành phần của Đoàn, cả những từ ngữ dùng trong giao tiếp v.v… cũng được đặt ra. Tôi không có năng khiếu kể chuyện mặc dù có cả “một kho truyện tiếu lâm” hoặc kể không được hấp dẫn, nhưng thường thay mặt Đoàn nói về ý nghĩa và lịch sử của những trận đánh, những chiến dịch mà nhiều người trong Đoàn muốn biết. Những khi trực tiếp đối ngoại với cán bộ quân khu, tỉnh, huyện hoặc nhà hàng, khách sạn thì người thay mặt cho Đoàn là trung tướng Lê Minh Cược và đại tá Nguyễn Xuân Hà. Một chuyến đi thành công mức nào thì những điều như đã nói ở trên mang tính quyết định, không đơn giản chút nào.
Xe lướt nhanh trên đường số 5 qua địa phận các tỉnh Công Pông Ch’năng, Puasat hướng tới thành phố Bát Tam Băng, dọc đường hầu như không còn để lại dấu tích của những trận đánh đẫm máu, những chiếc xe tăng cháy rụi nằm rải rác hai bên đường, những cỗ pháo chúc nòng xuống đất, những cây cầu chênh vêng bắc tạm nối hai bờ, và những khu nhà tang hoang… tất cả sau hơn 45 năm đã không thể nhận ra. Đặc biệt là hệ thống giao thông, một sự thay đổi quá nhanh so với thời gian.
Không dừng lại ở thành phố Bát Tam Băng, xe rẽ phía tây, qua đường tàu hỏa theo quốc lộ 10 lên Pailin. Nhìn sang phía trái, những ngôi chùa, ngọn tháp giát vàng óng ánh dưới ánh nắng chói chang, đây là xã Lâm Chầm Pâu – Ba Núi. Cái địa danh “Ba Núi” do bộ đội ta đặt, bởi vùng này có ba ngọn núi nổi lên như những hòn đảo giữa biển khơi. Phía sau những ngôi chùa nguy nga tráng lệ kia có cái hang sâu, nơi những người dân vô tội bị lính Pôn Pốt hành quyết rồi ném xuống. Tháng 3 năm 1979, chúng tôi lên đây, dưới hang sâu chất đầy xác người. Từ dưới đường nhìn lên, tôi có cảm giác những oan hồn đang lấp ló sau những mái ngói, dưới những khối đá lim lìm mà thấy rờn rợn. Năm 2012, hưởng ứng cuộc thi, chủ đề “Kỷ niệm sâu sắc Việt Nam – Campuchia”, tôi viết về cái hang chứa xác người này và đoạt giải thưởng của TCCT.
Qua khỏi cua chữ “V” lên Pailin là “đoạn đường máu lửa”. Trong 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế đã có biết bao nhiêu chiếc xe vận tải, xe tăng-thiết giáp bị phá hủy và hàng trăm cán bộ chiến sỹ quân tình nguyện thương vong vì mìn, vì bị phục kích trên đoạn đường chưa đầy chục km này. Giờ đây, xe chúng ta bon bon trên đường nhựa phẳng lì, giữa những khu dân cư đông đúc, những vườn cây ăn trái, trẻ em tung tăng đến trường, xe cộ ngược xuôi.
Quá trưa, Đoàn đã có mặt tại thị trấn “Kim cương” của Pailin thời máu lửa, (“Pailin thời máu lửa” là tên của cuốn tiểu thuyết, tôi đã đoạt giải thưởng văn học Sông Mê Kông năm 2021 và cũng đã được dịch sang tiếng Anh, phát hành trên toàn cầu). Chắc chắn nhiều người trong Đoàn không thể hình dung hết cái thị trấn của mìn bẫy, của chết chóc đủ mọi lý do, như liệt sỹ Trần Duy Chiến, một chiến sỹ của trung đoàn 812 đã viết trong cuốn nhật ký “Mỗi bước chân đi, gập gềnh cái bẫy / Mìn nổ vang rền thịt nát xương bay”. Những khu phố xây kiểu tây, tàu đổ nát năm xưa, nay là những khu biệt thự, nhà cao tầng mọc lên giữa một vùng rừng núi trông đến là thơ mộng. Phía nam liền kề thành phố là khu chùa, mái ngói và những ngọn tháp chọc trời dát vàng óng ánh được xây dựng từ dưới chân một quả đồi lên đến đỉnh. Nếu ta lên đó, chỉ một phần ba ngọn đồi thôi là có thể quan sát được toàn cảnh thành phố Pailin. Để tạo thế phòng giữ thị trấn này, trong những năm làm nhiệm vụ chiến đấu ở đây, trung đoàn 812 thuộc sư đoàn 309 đã xây dựng lô cốt bằng bê tông và đưa súng ĐKZ75 lên đó, biến nó như một pháo đài.
Thành phố Pailin nằm giữa cái rốn của hệ thống giao thông: phía bắc có đường 58 từ Sơ rê an tiếc chạy xuống, phía đông là đường số 10 từ thành phố Bát Tam Băng lên, phía tây là đường từ Thái Lan qua. Tất cả ba trục đường hội tụ tại Pailin, với lợi thế về địa hình, về đất đai thổ nhưỡng, về nguồn khoáng sản kim cương, đá quý, lâm thổ sản và nhất là có đường qua biên giới Thái Lan, nên ngày xưa, hiện nay và tương lai sẽ là một thành phố thương mại và du lịch của nhà nước Campuchia. Ở bên cái “Cầu Sập” những người lính tình nguyện đã xây nên cái tượng đài nho nhỏ, là địa chỉ tâm linh tại thành phố này để mỗi khi anh em CCB hay khách thập phương đến thắp nhang. Đoàn chúng tôi dừng lại, mỗi người cầm một nén nhang kính cẩn nghiêng mình trước vong linh những người lính đã chiến đấu bảo vệ Pailin và hy sinh tại đây.

Theo kế hoạch cũ thì lẽ ra Đoàn phải quay lại thành phố Bát Tam Băng để theo đường số 5 lên Pôi Pét, Cao mê lai, nhưng được người dẫn đường cho biết đường từ Pailin lên Cao mê lai chạy dọc biên giới rất tốt. Đây là một tin vui phù hợp với nguyện vọng của tôi và số anh em sư 309 đi trong Đoàn lần này. Trên tuyến biên giới Campuchia – Thái Lan là chiến trường quen thuộc và ác liệt nhất. Tôi muốn dịp này, khám phá con đường này qua các địa danh: Com Riêng – Ô Đa – Sơ Đa – Cao mê lai ra ngã ba con Voi (Đầm Rây) rồi đến cửa khẩu Pôi Pét – Si Sô Phôn. Trục đường được trải nhựa này hình như theo đường phát quang năm xưa trong kế hoạch “K5” (Kế hoạch xây dựng tuyến phòng thủ biên giới năm 1984-1985). Những trận đánh vào căn cứ địch dọc sát biên giới, những nơi chúng tôi vượt suối vào sâu trong nội địa Thái Lan hàng chục km để tìm căn cứ lính Pôn Pốt, nay là những khu dân cư, những vườn cây trái rộng mênh mông. Được biết hàng nông sản của người dân Campuchia ở đây đưa qua biên giới Thái Lan sẽ thu mua hết, đây cũng là một lợi thế. Trước hết con đường này, các khu dân cư này sẽ là mô hình “Kinh tế kết hợp quốc phòng” . Tuy trục đường hơi xa biên giới, nhưng với con mắt “nhà nghề”, tôi đã thuộc lòng tấm bản đồ quân sự vùng này nên có thể hình dung được địa hình mà xe chạy qua để lên Cao mê lai. Căn cứ Cao mê lai, nơi đặt văn phòng Trung ương ba phái phản động Campuchia nay là khu dân cư đông đúc, có chợ, có các cửa hàng, có đường chạy lên suối Kh’long sai cũng là đường biên giới, có cầu và cửa khẩu qua Thái lan. Nhớ lại những lần đánh chiếm mục tiêu này, nay nhìn trên thực địa thì là một vùng rộng lớn không phải như cái căn cứ dọc biên giới năm xưa. Tôi có mang theo tấm hình chụp chiếc cầu gỗ có mấy anh lính gác để đối chiếu, nhưng thời gian đã về chiều, nhìn áng mây hồng đã chuyển về hướng tây, đang từ từ lặn xuống sau dãy núi xa xa nên Đoàn phải rút ngắn thời gian để về Si Sô Phôn trước khi hoàng hôn buông xuống. Tối hôm đó, Đoàn ngủ lại Si Sô Phôn, thủ phủ của tỉnh Bần Tia Mien Chey trước sự đón tiếp chân tình của những người anh em ở đây.
Ngày 31-3:
Tỉnh Bần Tia Mien Chey, theo lời giới thiệu của ông chủ tịch, tỉnh có hai thành phố và bảy huyện. Si Sô Phôn là một trong hai thành phố của tỉnh. Dưới nó là bảy huyện gồm: Sawaichech, Thơ Ma Puốc, Malai, Mông Col Bô Rây, Och’ron, Pre Nepre và Poi Pết. Bần Tia Mienchey được thành lập từ năm 1988, bao gồm một phần tỉnh Xiêm Riệp phía đông sáp nhập với một phần tỉnh Bát Tam Băng phía tây, phía Đông bắc giáp tỉnh Ôt đô mien chey. Thủ phủ tỉnh Bần Tia Mien Chey là thành phố Si Sô Phôn, đầu mối của những đường giao thông quan trọng: đường 5 nối với tỉnh Bát Tam Băng, đường 6 (nay là đường 57) nối với tỉnh Xiêm Riệp, đường lên cửa khẩu Poi Pét và một đường lên Sawaichech giáp tỉnh Ôđomienchey. Còn nhớ, mỗi lần lên họp ở BTL MT479, cán bộ sư đoàn 309 và Đoàn 7704 đến Si Sô Phôn được một phần hai cung đường, ăn trưa tại đây. Nơi đây thường đặt Sở chỉ huy tiền phương Mặt trận 479 trong các chiến dịch. Ngồi tại phòng khách, tôi chỉ tay lên ngọn đồi phía bắc nói với một thành viên trong Đoàn: “Đó là trạm thông tin liên lạc của Mặt trận, trên đỉnh có cột antel tiếp sóng cố định, không cứ là phục vụ các chiến dịch, nên cũng có lần bị địch tập kích. Ở sườn phía đông có sân bay trực thăng, mỗi lần có sự kiện gì trên hướng này, thủ tướng Hun Sen thường đáp trực thăng MI8 xuống đây!”. Một điều chúng ta đáng mừng, người trong cuộc không nên mặc cảm khi ông chủ tịch cho biết số lượng người Việt Nam ở đây khá đông phần nhiều là anh em bộ đội sau ngày rút quân họ ở lại lập nghiệp và đã thành lập Hội Việt Kiều của tỉnh. Tối 31-3 Đoàn lưu lại ở đây, có nhiều anh em đến thăm. Tôi cho rằng: dù là lý do gì khiến anh em ở lại, song giờ đây họ là những chiếc cầu nối tình cảm giữa nhân dân hai nước, là chỗ dựa tin cậy mỗi khi có đoàn CCB nào trở lại thăm chiến trường xưa. Trong số họ, phần nhiều đã có một gia đình hai ba thế hệ, có người đã đã là doanh nhân thành đạt, như gia đình cháu Phi Run, con trai của một trợ lý trinh sát thuộc Đoàn 7704 Bát Tam Băng mà chính tôi đã tìm được người “gieo mầm”, tạo điều kiện cho bố con sau gần 30 năm được gặp lại. Một người khác có tên là Khu quê tỉnh Hải Dương của Việt Nam cũng có vợ, con kinh tế khá giả. Một cựu quân nhân nữa thuộc quân khu 9 cũng có vợ và gần một tá con cháu. Ba cậu này đã lái xe đi theo Đoàn cho đến chặng đường cuối cùng, khi Đoàn ra cửa khẩu về nước họ mới quay lại. Thật nghĩa tình của những người Việt xa quê hương ở đây. Phần sau, tôi sẽ nêu lên một trường hợp rất đặt biệt về một gia đình chồng Việt, vợ Cam tại Xiêm Riệp.
Ngày 01-4:
An long veng – Xiêm Riệp là địa bàn hoạt động của Sư đoàn 302 quân tình nguyện Việt Nam thuộc MT479 và Sư đoàn 286 bộ đội Campuchia thuộc quân khu 4. Cũng cần nói thêm, trong những năm từ sau ngày MT479 được thành lập, quân khu 4 chỉ có hai tỉnh là Xiêm Riệp và Bát Tam Băng, từ năm 1988 được chia tách thành 4 tỉnh. Lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia thuộc quân khu 4 có 4 sư đoàn và các đơn vị binh chủng: sư đoàn 6 cùng trung đoàn 96 thuộc sư đoàn 309 trấn giữ vùng Nam Cao mê lai – Nam Sấp, sư đoàn 196 cùng trung đoàn 812 cũng thuộc sư 309 tại đường 10 – Pailin, sư đoàn 179 cùng sư đoàn 5 quân tình nguyện đảm nhiệm bảo vệ Si Sô Phôn và tuyến biên giới Đăng Kum – Pôi Pét trên hướng chủ yếu của Mặt trận. Trên địa bàn tỉnh Xiêm Riệp, sư đoàn 302 sát cánh với sư đoàn 286 quân khu 4. Bên cạnh BTL MT479 còn có Đoàn chuyên gia quân sự khu vực 4 và hai Đoàn chuyên gia quân sự 7704 ở tỉnh Bát Tam Băng, 7705 tỉnh Xiêm Riệp.
Từ Si Sô Phôn, thủ phủ tỉnh Bần Tia Mienchey Đoàn chúng tôi xuyên qua Ốt đômienchey đến các căn cứ địch trước đây ở An long veng. Được biết, sau cuộc tổng tiến công của xe tăng và bộ binh ta, quét sạch căn cứ An long veng, tư lệnh chiến dịch đã cắm Sư đoàn 302 trấn giữ nhiều mục tiêu quan trọng. Những cái tên Ăm Pin, Sầm Rông, Kralanh, Chông Can, Cu len (Núi Hồng), Đăng Rếch… là những địa danh quen thuộc mà quyết liệt đối với Sư đoàn 302 trong những năm làm nhiệm vụ quốc tế. Tôi đã từng có những đánh giá, nhận định về tình hình mọi mặt: địch, ta, địa hình, thời tiết và cho rằng, trong bốn sư đoàn thuộc MT479 thì Sư đoàn 309 là nơi khó khăn, ác liệt nhất so với sư 5, 317 và 302, nên phần đầu bài viết này tôi có làm một phép tính so sánh số hy sinh của hai sư đoàn để tìm ra nguyên nhân của sự chênh lệch về số anh em hy sinh, rõ ràng ngoài yếu tố về địa hình, thời tiết, đối tượng tác chiến phải nói đến năng lực chỉ huy của cán bộ và kỹ năng chiến đấu của binh sỹ trước âm mưu và thủ đoạn xảo quyệt của kẻ thù. Những khó khăn ở địa bàn thuộc sư 302 chẳng khác mấy sư 309. Nếu chỉ là hai yếu tố trên thì phần khó khăn nhiều hơn vẫn là sư 309.
Trước khi đặt chân lên An long veng, Đoàn thắp nhang tại miếu thờ các liệt sỹ ở tỉnh Ốt đômienchey. Dãy Đăng Rếch như một con rắn khổng lồ, che chắn phần lớn đất nước chùa tháp hướng bắc và tây bắc. Tư lệnh quân khu 4 cho biết, phía trước dãy Đăng Rếch là các quốc gia Lào và Thái Lan, nên dãy Đăng Rếch có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng. Xe chúng tôi được xe cảnh sát và hiến binh dẫn đường dọc theo dãy núi này, đi đến đâu, đứng ở vị trí nào ở tỉnh Xiêm Riệp cũng có thể thấy dãy Đăng Rếch như cái bờ đê chắn ngang trước mặt. Có điều, lẽ ra dưới chân dãy núi này phải là một con sông hay một dòng suốt nước chảy thì thật tuyệt vời cho sư đoàn 302 trong những năm tháng chiến đấu tại đây. Ngồi trên xe, tôi đã cố quan sát để thấy được một con suối. Với đặc điểm về cấu tạo địa hình ở đây nói riêng, trên đất nước Campuchia nói chung như một cái chảo khổng lồ. Mùa mưa qua đi thì dãy Đăng Rếch cây cối cũng khô héo trơ lại toàn đá vôi nên tuy dưới chân núi có con suối nhưng lúc chúng tôi qua đây cũng chỉ còn lại những vũng nước nhỏ. Tại tỉnh Xiêm Riệp mọi người trong Đoàn nghe nói ở vùng An long veng này còn tồn tại căn nhà của Tổng Tham Mưu Trưởng Tà Mok và mộ trùm phát xít Pôn Pốt, hai tên tội phạm của bộ máy diệt chủng. Đoàn chúng tôi đang trên đường đến hai địa điểm này.
Trước tiên là nhà của Tà Mok. Tôi nói đùa với một thành viên trong Đoàn: “Ở Việt Nam có nhà của vua Mèo tôi đã đến, hôm nay chúng ta đến nhà của Tà Mok!”. Trong lần trở lại chiến trường xưa 2005, thủ tướng Hun Sen cho biết: Sau khi quân tình nguyện rút về nước, những tên trùm tội phạm xin về trình diện, thủ tướng đều đồng ý và ra điều kiện cho họ. Riêng Tà Mok, thủ tướng nói: “Tôi không đồng ý vì Y quá gian ác!” và sau đó bị quản thúc và chết tại Ph’nôm Pênh.

Căn nhà một trệt một lầu, gọi là một gác thì đúng hơn bởi nó đã xuống cấp nghiêm trọng do thời gian và “không có hơi người” từ khi chủ nó đã chết. Bước chân vào tầng trệt hay khi theo cầu thang đi bộ lên lầu một, không chú ý sẽ bị vấp ngã do gạch nền bị bong tróc từng mảng. Trước mặt là cái hồ nước rộng mênh mông, trước đây trồng sen. Đất nước Campuchia ở đâu người ta cũng trồng sen để lấy hạt, hạt sen là một nguồn thức ăn bổ dưỡng, nhưng dưới chế độ Pôn Pốt, người dân chẳng dám đụng vào không những sen mà tất cả, chúng gọi là “tài sản XHCN”. Trên tầng gác còn trưng bày một số hiện vât, chủ yếu là tranh ảnh chụp những hoạt động của Tà Mok và giới chóp bu. Chẳng có gì đáng phải quan tâm để có thể thu thập làm tư liệu. Tôi sốt ruột muốn đến xem mộ Pôn Pốt ngay bởi sử sách nói nhiều về hắn nhưng đến nay không những tôi mà rất nhiều người chưa biết mộ của trùm phát xít được chôn ở đâu.
Chiếc xe cảnh sát đi trước, tiếp đến là xe của hiến binh, xe Đoàn chúng tôi đi sau, tất cả theo con đường trải nhựa vắt qua dãy Đăng Rếch lên đỉnh. Tôi đi xe riêng của hai người lính tình nguyện đã có gia đình ở Bát Tam Băng, lên gần hết cái dốc thì chiếc xe hộ tống phía sau hỏng máy. Nằm chờ gần cả tiếng đồng hồ đến nỗi chiếc xe của Đoàn vượt lên lúc nào tôi không biết, đến khi họ trở lại thì, ôi thôi tôi chưa đến được mục tiêu rất quan trọng trong chuyến đi này là mộ Pôn Pốt. Xe chở tôi vội vàng phóng lên, gần đến cửa khẩu Ôsamach Campuchia – Thái Lan, một lối rẽ bên phải cho một làn xe bằng bê tông, một tấm biển màu xanh cũng bên phải lối rẽ đập vào mắt, tôi không biết chữ Campuchia, nhưng có người nói là “khu hỏa táng Pôn Pốt”.

“Nhà ngươi đấy ư!”. Một khung sắt lợp mấy tấm tôn để che mưa, che nắng rộng chừng 20 mét vuông, cao khoảng 2,5 đến 3 mét trùm lên ngôi mộ nằm im lìm trong một vườn hoang tối tăm dưới những tán cây cao bao phủ. Phía dưới khung sắt còn có mấy mảnh tôn đã rét rỉ, mục nát, lợp lên mộ hình mái nhà, thấp lè tè chẳng khác cái lều chăn vịt, nếu ta dùng ngón tay trỏ chọc vào có thể xuyên thủng tấm tôn một cách dễ dàng.

Xung quanh là hàng cọc bê tông bao quanh ngôi mộ được liên kết với nhau bằng ba cây sắt phi 8 cũng đã sét rỉ. Tôi hít không khí vào đầy lồng ngực để lấy can đảm bước đến, tay vừa chạm thanh sắt, như một luồng điện, người nổi gai rồi một cảm giác thật khó tả thành lời nhanh chóng lan ra khắp cơ thể. Mộ Pôn Pốt được đắp lớp đất đã bạc màu, bị thời gian và mưa nắng bào mòn, lở lói chỗ cao nhất trên ngôi mộ cũng chỉ còn khoảng 20cm, gần như bằng phẳng với xung quanh. Một người đàn bà từ cái vườn gần đó bước đến, không hiểu có phải bà ở đây để trông coi mộ Pôn Pốt, và nếu vậy thì ai giao cho bà công việc này. Tôi thầm nghĩ: có thể bà là người có liên quan họ hàng với gia đình tên trùm phát xít “Adolf Hitler của thế kỷ 20” này, chắc chắn chính quyền ở đây không bao giờ quan tâm đến việc này giao cho bà…
Sau khi tôi đăng tải hình ảnh này, trên mạng xuất hiện một số hình màu chụp Pôn Pốt lúc bị bệnh và khi thiêu xác. Những hình ảnh này chưa được kiểm chứng nhưng tôi cho rằng có thể tin được.





Đoàn CCB quân tình nguyện MT479 khu vực Hà Nội đến thăm BTL quân khu 4 vào buổi chiều. Riêng tôi, đây là lần thứ 2, lần đầu tiên năm 2005 đi trong đoàn CCB thuộc MT479 và 779 theo lời mời của thủ tướng Hun Sen, ngày ấy Đoàn cũng 40 người. Nhưng lần này, Đoàn Hà Nội có sự chuẩn bị kỹ hơn bởi có mang theo những món quà lưu niệm để tặng bạn. Không riêng gì đối với tư lệnh và cơ quan quân khu 4 mà đến đâu Đoàn cũng mang theo quà, giá trị vật chất không lớn, chủ yếu tượng trưng về mặt tinh thần là cái đĩa in hình logo của Hội CCB Mặt trận 479 khu vực Hà Nội và cái huy hiệu cùng logo. Trưởng Đoàn, trung tướng Lê Minh Cược và Phó Đoàn, đại tá Nguyễn Xuân Hà lại thay nhau lên giới thiệu và phát biểu như là một công thức đã lập trình sẵn. Thực tình, tôi rất ngán cái mục này, còn các anh chắc cũng vậy thôi, nhưng đây là trách nhiệm, mà phải nói rằng các anh là những người vừa có tâm và quan trọng là có tầm, phát biểu với những người đứng đầu của một nhà nước không phải chuyện đùa. Trong các cuộc tiếp xúc, tôi cảm nhận Trưởng Đoàn Lê Minh Cược có những ý kiến khá là chặt chẽ và sâu sắc mang tính thời sự, đúng tầm một cán bộ chính trị cấp quân khu.
Tư lệnh quân khu 4 cho biết: Trong thời gian qua, quân khu đã quy tập được 3.029 bộ hài cốt bộ đội Việt Nam, riêng trên địa bàn quân khu 5 có 531 liệt sỹ.
Ngày 02-4:
Thăm bảo tàng Sở chỉ huy MT479: Đến Xiêm Riệp lần này, chúng tôi thăm lại Sở chỉ huy, trái tim của Mặt trận 479, trung tâm phát ra những mệnh lệnh, chỉ thị của tư lệnh và cơ quan chỉ huy chiến dịch trong suốt 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế. Mọi chủ trương từ cấp chiến lược của Đảng, nhà nước, BQP và quân khu 7 của ta theo hệ thống thông tin như mạng nhện, được hút vào đây thông qua tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia (MT719 ở thủ đô Ph’nôm Pênh).
Tháng Tư năm 1979, MT 479 được thành lập, phiên hiệu 479 có nghĩa là thành lập vào tháng 4 năm 1979. Tại thành phố Hồ Chí Minh có BLL MT479, hàng năm, cứ đến ngày 14 – 4 lại nhóm họp và tổ chức gặp mặt. Người tư lệnh đầu tiên của MT479 là Đại tá Bùi Thanh Vân (tự Út Liêm), kế tiếp là thiếu tướng Lê Thanh, Hồ Quang Hóa, Đỗ Quang Hưng…, trung tướng Khiếu Anh Lân là đời tư lệnh cuối cùng. Chúng tôi đi một vòng từ nhà tư lệnh đến nhà làm việc của các Cục và nhà ăn. Mỗi một căn nhà cấp 4, xây bằng gạch, quét vôi, phía sau là chiếc hầm tránh pháo, đắp nổi bằng đá với xi măng, cao khoảng 1m50. Trong nhà tư lệnh và các Phó tư lệnh trưng lên tường các hình ảnh chụp các hoạt động của các cơ quan và các đơn vị, có bàn làm việc, trên bàn tư lệnh có chiếc điện thoại cũ, chiếc radio và một số văn bản được chú thích là “tài liệu mật”. Trong phòng ngủ nghỉ treo một bộ quân phục có gắn sẵn quân hàm, cấp hiệu của các thành viên BTL. Hiện có đủ hình ảnh của tư lệnh và các Phó tư lệnh qua các thời kỳ. Tôi giả đóng vai tư lệnh, ngồi vào bàn, cầm cây viết như đang chuẩn bị ký rồi đi xem hết các hình ảnh, bất ngờ khi nhìn thấy tấm hình có mình ở trong đó, một niềm vui nho nhỏ khi được lưu lại trong bảo tàng này.


Buổi trưa có cuộc hẹn của một người đặc biệt: đó là đại úy-bác sỹ đang làm việc tại quân khu 4, Nguyễn Thị Mai, kết quả của một mối tình giữa một người lính quân tình nguyện với một phụ nữ Campuchia. Thật tình cờ và hy hữu khi người cha của cô bác sỹ là đồng hương Hà Tĩnh với tôi. Câu chuyện tình của gia đình này có thể viết được một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn, tôi thầm nghĩ. Bác sỹ Mai, được bố đưa về Việt Nam học. Chắc chắn, những năm tháng ngồi trên ghế nhà trường, không ai nhận ra một cô gái mang hai dòng máu nếu bố Xuân và họ hàng nhà cô không nói ra điều này. Sau khi tốt nghiệp cô bác sỹ trở lại Campuchia và làm việc trong cơ quan quân khu 4. Mai là con gái thứ hai trong gia đình bố Xuân, trên và sau Mai đều là con trai. Ông Xuân đã có cháu ngoại, rất ngoan và thông minh. Bố con Mai và các thành viên trong gia đình đều thành đạt hầu như trên tất cả các phương diện.
Đoàn chúng tôi được bố con Mai tiếp tại nhà hàng và được tặng quà là đặc sản Campuchia do chính bàn tay họ làm ra.
Chia tay bố con Mai và các cháu, lòng tràn đầy lưu luyến và cảm xúc về một gia đình được sinh ra và lớn lên trong cuộc hồi sinh kỳ diệu của đất nước chùa tháp.
Ngày 03-4:
Chặng cuối cùng cũng là ngày cuối cùng của chuyến trở lại thăm chiến trường xưa, lãnh đạo tỉnh Ta-Bông Khơ mun chờ Đoàn từ sáng. Đón tiếp niềm nở chân tình là nét đẹp không những ở tỉnh Ta-Bông Khơ mun trưa hôm ấy đối với Đoàn chúng tôi mà hầu như ở khắp đất nước nhà Phật. Đoàn chúng tôi lúc sang, qua cửa khẩu Mộc Bài, đi một vòng hết các tỉnh thuộc quân khu 4 – Mặt trận 479 năm xưa. Nay về nước qua cửa khẩu Samat. Mỗi thành viên trong đoàn đều mang theo nhiều cảm xúc của chuyến đi. Biết nói gì hơn, xin cảm ơn quân và dân Campuchia anh em, trực tiếp là các tướng lĩnh và sỹ quan cao cấp thuộc quân khu 4, các vị lãnh đạo Đảng và nhà nước Campuchia đã dành cho Đoàn CCB MT479 Khu vực Hà Nội sự đón tiếp trọng thị, những tình cảm đặc biệt sâu sắc, nghĩa tình, thủy chung. Xin chúc mối tình hữu nghị truyền thống Việt Nam – Campuchia/ Campuchia – Việt Nam tiếp tục được củng cố và phát triển tốt đẹp.
Chia tay hoàng hôn:
Chiều tối 03-4, Đoàn về đến Sài Gòn đúng vào lúc hoàng hôn đã buông xuống, tập họp tại khách sạn Mường Thanh, mở tiệc chiêu đãi để cảm ơn sự giúp đỡ chí tình chí nghĩa của BTL và cơ quan quân khu 7 đồng thời chia tay nhau trước khi ra sân bay TSN về Hà Nội, kết thúc trọn vẹn chuyến trở lại thăm chiến trường xưa.