Vài nét về tác giả:
Tác giả Lâm Việt Tùng sinh năm 1961, học Toán nhưng thích làm thơ từ nhỏ. Đỗ Khoa Toán – Lý, trường Đại học (ĐH) Khoa học Tự nhiên TP HCM và được chọn du học tại trường ĐH Kỹ thuật Budapest (Hungary).
Năm 1986, sau khi tốt nghiệp, anh được giữ lại trường làm trợ giảng về CNTT. Sau khi kết hôn với một cô gái Hungary xinh đẹp, anh chuyển sang làm CNTT cho công ty phát triển hệ thống GIS (như Google maps bây giờ) cho Tập đoàn Dornier (Đức), nay thuộc về ESA – Trung tâm vũ trụ Châu Âu.
Được 5 năm, anh và gia đình chuyển sang làm việc và sinh sống tại Hà Lan từ 1995 đến nay. Tại Hà Lan, anh thành lập công ty riêng về CNTT, phát triển phần mềm và làm tư vấn kiến trúc giải pháp tin học, đặc biệt trong lĩnh vực viễn thông và ngân hàng cho nhiều tập đoàn lớn của thế giới có chi nhánh tại Hà Lan và Châu Âu như: Liberty Global, Siemens, Compaq, AT&T, Huawei, British Telecom, Ziggo -Vodafone, ABN-AMRO, ING bank… Anh Tùng từng là chuyên gia tư vấn, kiến trúc sư trưởng CNTT của Tổng công ty Mobifone tại Hà Nội và hiện vẫn là cố vấn (từ xa).
Là người làm CNTT, anh thấy được vận hội to lớn của đất nước nếu biết tận dụng thời cơ, có chính sách đột phá tập hợp mọi nguồn lực trong và ngoài nước, Việt Nam sẽ phát triển và nhanh chóng hội nhập với các nước văn minh, phát triển. Anh Tùng đã có nhiều bài viết nêu các giải pháp để Việt Nam phát triển như loạt bài về chuyển đổi số, vấn đề giáo dục, môi trường…
Là “dân” công nghệ, nhưng anh lại rất thích làm thơ. Thơ anh là tiếng lòng của người con xa xứ, dạt dào nỗi nhớ quê hương, những kỷ niệm sâu đậm về gia đình, bạn bè, những trăn trở về thời cuộc, niềm cảm thông với phận người…
Anh Tùng là Cộng tác viên thường xuyên cho Tạp chí Quê Hương và hay chia sẻ các bài thơ trên Facebook, dịch thơ Hungary, viết tiểu luận về âm nhạc Hungary và bài viết “The Journey to The White House Song” – “Hành trình tìm về Ngôi Nhà Trắng” được chọn trình bày tại Hội thảo “GLOBAL DIASPORA NETWORK FORUM” ở Seoul, Hàn Quốc tháng 11, năm 2021.
Trường ca Mỵ Châu - Trọng Thủy
Lần xem lịch sử nước Nam
Tình và trung - hiếu khéo làm khổ nhau
Tương truyền, câu chuyện thương đau
Người xưa nhắn ít, đời sau ngẫm nhiều.
Trên từng tấc đất thân yêu
Cha ông máu đổ, lửa thiêu, không sờn
Quyết tâm bảo vệ giang sơn
Hy sinh vì nước, tiếng thơm lưu truyền.
Thời Âu Lạc, trước công nguyên
Có người họ Thục, hữu duyên tâm tài
Chọn ngày tháng tốt lên ngai
An Dương Vương hiệu, trong ngoài nể danh.
Có công chúa đã trưởng thành
Mỵ Châu tên gọi, hiền lành nết na
Má đào, mày liễu, thướt tha
Nét xoan khuôn mặt, nước da tuyết nhường.
Nụ cười ấm áp bốn phương
Tiếng đàn mê hoặc, lầm đường người nghe
Gót sen lay động trúc tre
Chàng nào nhác thấy, đêm về mơ hoa.
Triệu Đà ngấp nghé ải xa
Lăm le thôn tính, vua cha nóng lòng
Loa Thành thiết kế kỳ công
Xoáy hình trôn ốc, hào thông trong ngoài.
Cứ gần đến lúc ban mai
Con gà trống trắng gáy hoài không thôi
Tiếng kêu nhức nhối núi đồi
Thành xây lại đổ, vua ngồi trên than.
Có người khuyên hãy lập đàn
Bên sông cầu khấn khỏi gian nan này
Khói hương linh nghiệm lạ thay
Kim Quy bỗng hiện, hỏi ngay chuyện gì.
Vua quan hoảng hốt lạy quỳ
Rằng: Xin đừng sợ Kim Quy tên thần
Thành xây bị đổ bao lần
Là do yêu quái nên cần trừ ngay!
Cổ Loa, hôm đó mù dày
Kim Quy làm phép lá bay lạ kỳ
Yêu ma biến mất tức thì
Bầu trời xanh lại, người quỳ bên sông.
Vua tôi hợp lực đồng lòng
Thành xây ba tháng đã xong như cầu
Có thành cao, có hào sâu
Làm sao ngăn nổi vó câu hung tàn!?
Ruột đau, nước mắt như chan
Thương dân, lo nước, vua than nỗi lòng
Kim Quy hiện lại như mong:
- Có chi lo lắng hại long thể rồng?
- Nhờ thần thành đã xây xong
Lo khi giặc đến, nên phòng ra sao?
- Sử xưa đã dạy thế nào?
Dân giàu, nước mạnh, kẻ nào dám gây.
- Thần cho thêm chiếc móng này
Để làm lẫy nỏ chặn bầy sói lang
Tên bay một phát giết ngàn
Đừng cho ai biết, giang san khó toàn.
Vua mừng, hết đỗi lo toan
Kim Quy rẽ nước, khoan thai giã từ.
Vời Cao Lỗ đến phòng tư
Truyền làm chiếc nỏ giống như lời thần.
Mỵ Châu muốn biết xa gần
Vua nhìn lưỡng lự, tần ngần ít lâu
Mặt nàng trở nét u sầu
Thương con úp mở, giấu đầu hở đuôi.
Tò mò theo gió đã nguôi
Tiếng đàn trầm bổng, lá xuôi theo dòng.
Mình Châu đi dạo bên sông
Bỗng dưng lo vướng vào vòng phu thê.
Đà mơ bá chủ, u mê
Động binh thôn tính bốn bề gần xa
Đến Âu Lạc, đụng Thành Loa
Linh quy phát tác, quân Đà bại vong.
Chiến tranh máu chảy thành sông
Đà thời biết rõ thắng không ở gần
Cho truyền Thủy đến, ân cần:
- Con sang Âu Lạc dò quân, giả hòa.
Đừng quên thiên hạ của ta
Ghi lòng tạc dạ mới là hiếu trung
Mình con ở chốn sơn cùng
Nằm trong hang cọp, nhớ đừng quên cha.
Một là ở rể giải hòa,
Hai là làm rõ sao ta thua nhiều
Đồn rằng họ có thần tiêu
Khôn ngoan, cẩn trọng, cố điều tra ra.
Rồi Đà gửi chiếu cầu hòa:
- Rằng dân đã mệt, rằng Đà đã sai
Lân bang hòa hiếu lâu dài
Thông gia kết nối, tương lai hòa bình.
Đọc xong, vua đứng lặng thinh
Phân vân, không rõ ẩn tình gì đây.
Cận thần thân Triệu giãi bày:
- Chiếu theo đại cục, nghĩ nay nên hòa
Thời cơ dưỡng sức quân ta,
Hai nhà hòa hiếu, mới là khôn ngoan
Chiến tranh dân khổ muôn vàn
Cũng cần gia cố vẹn toàn Thành Loa.
- Lời ngươi hẳn giống ý ta
Lại thêm Linh nỏ hẳn Đà hòng mơ
Con trai ở rể bây giờ
Động binh bị giết, quân cờ tay ta.
Mỵ Châu nghe bị gả xa
Nào đâu dám cưỡng lời cha, ý trời
Giữa tình và hiếu chơi vơi
Sầu cao như núi, nghẹn lời sau then.
Vua nghiêm mặt, bảo rồi quen
Mẹ con xưa vậy, số đen đâu nào!?
Mỵ Châu lệ cứ tuôn trào
Biết cha đã quyết, bàn vào, không ra.
Tức thời vâng lệnh vua cha
Thủy mang châu báu đến nhà Mỵ Châu
Thoáng nhìn nàng đã hết sầu
Người đâu anh tuấn, lời cầu như thơ.
Nhìn Châu, Thủy nghĩ mình mơ
Cảm ơn trời đất xe tơ duyên này
Chàng nàng cúi mặt tỏ bày
Ngoài thì e ấp, trong say men tình.
Sáng lên thành ngắm bình minh
Trưa cùng cưỡi ngựa thả mình trên non
Chiều đi dạo dưới hoàng hôn
Đêm mê đàn hát, liễu hờn, trăng ghen.
Hai người xa lạ, thành quen
Người tim đỏ, kẻ tim đen, cùng giường…
Một hôm trăng sáng như gương
Tỉ tê to nhỏ, giả thương, giả tình.
Mỵ Châu nào biết cáo tinh
Tận tường kể hết chuyện mình, chuyện ta…
Mách cho nỏ cất phòng cha
Chỉ cho dùng lẫy bắn ra thế nào…
Ngây thơ, mù quáng làm sao
Vô tình, bí mật nàng trao cáo già.
Thư về tâu hết với Đà
Cho làm lẫy giả, xa nhìn y trang.
Châu vui bày tiệc phượng loan
Cha con uống rượu, mơ màng ngủ say
Thời cơ đến, Thủy đổi ngay
Hôm sau, xin phép phải quay về nhà:
- Thật lòng chẳng muốn rời xa
Cha già bệnh nặng, bụng đà lửa than.
Châu rầu rĩ, Thủy như van:
- Sợ khi chớp bể, mưa ngàn sẽ sao!?
Chiến tranh bất cứ lúc nào
Lỡ mà thất lạc, ta sao tìm nàng?
Mỵ Châu đáp lại vội vàng:
- Người đi bảo trọng, thiếp chàng đừng lo
Áo lông ngỗng trắng cha cho
Cứ lần theo dấu là dò ra thôi.
Bóng người chưa khuất núi đồi
Triệu Đà ra lệnh liên hồi tấn công
Bao vây thành cả tây đông
Vua ngồi uống rượu, dân lòng không an.
Chẳng phòng, khinh địch, chủ quan
Cậy mình có nỏ, ai can cười khì
Bỗng dưng, mây chuyển màu chì
Chân thành giặc sát, nỏ thì không linh.
Biết thua, lên ngựa, hận mình
Châu ngồi sau vịn, dấu tình rải nhanh
Đường cùng, Cao Xá, Nghệ Thanh
Vua than, thần hiện, ngựa phanh căng thừng:
- Giặc ngồi ngay ở sau lưng!
Nghe xong, nổi giận, bừng bừng chém con.
Một đời vì nước, vì non
Đến khi thức tỉnh có còn gì đâu.
Lỗi lầm đắm dưới biển sâu
Nhà tan, nước mất, thật đau đớn lòng.
Triệu Đà chiếm được thành xong
Tình yêu chỉ dấu, Thủy mong gặp nàng
Tới nơi còn xác máu loang
Chết nằm trên cát, như đang ngủ rồi.
Thủy an táng ở đỉnh đồi
Nơi uyên ương đã cùng ngồi ngắm sao
Muộn màng hối hận tình trao
Trái tim tan vỡ, nhảy vào giếng sâu.
Máu nàng thành ngọc minh châu
Rửa trong nước giếng, ngàn đau sáng ngời
Tình nàng trong trắng tuyệt vời
Ngây thơ vướng bẫy, đất trời héo hon.
Lỗi mình, vua lại chém con
Nghe lời xúi giục, nước non mất rồi
Vì cha, Thủy lỡ duyên trời
Châu tin tình thật, đầu rơi không còn.
Đời cha truyền lại đời con
Tình yêu bi tráng, tim còn quặn đau
Mây đen luôn quẩn trên đầu
Không phòng, bão đến, còn đâu là nhà.
Hai nghìn năm thắm máu hoa
Mỵ Châu - Trọng Thủy trường ca bi hùng
Nhắc người giữa chuyện riêng chung
Tình nhà, nghĩa nước, vẹn cùng núi sông.
Lời xưa chép lại đôi dòng
Rất mong con cháu tỏ lòng ông cha
Đông về nắng ấm thành xa
Chuyện hay thơ họa, chút hoa tặng đời.
Hà Lan – 06/12/2024