Lê Nguyễn
1. Văn học là gì?
Văn học là nghệ thuật của ngôn từ, là loại hình nghệ thuật phi vật chất. Nó hoàn toàn khác với các loại hình nghệ thuật khác. Nếu như các loại hình nghệ thuật khác lấy vật chất làm chất liệu để sáng tạo thì văn học dùng ngôn ngữ hình tượng làm chất liệu.
Hội hoạ dùng đường nét, màu sắc. Sân khấu sử dụng ánh sáng, hoá trang, các đạo cụ. Âm nhạc sử dụng âm thanh. Còn văn học là loại hình nghệ thuật đặc biệt, dùng ngôn ngữ làm phương tiện biểu đạt.
Gorki cho rằng: “Văn học là nhân học”. Nghĩa là văn học luôn viết về con người và phục vụ nhu cầu thẩm mỹ của con người. Dù viết về dòng sông, cây cỏ, cánh đồng, đám mây… thì nó cũng được khúc xạ qua cái nhìn về con người. Nó phản ánh những buồn, vui, sướng, khổ, hạnh phúc hay đớn đau của con người.
Nhà thơ Tế Hanh viết “Nhớ rừng”, không phải để diễn tả nỗi nhớ của con hổ bị giam cầm mà thông qua hình ảnh có ý nghĩa tường minh này, tác giả bộc lộ nỗi đau mất nước. Trong hoàn cảnh nô lệ, dưới màng lưới kiểm duyệt gắt gao của thực dân Pháp, nhà thơ đành phải mượn lời con hổ, vị chúa tể của núi rừng để bày tỏ nỗi đau bị giam cầm, mất tự do trong những năm đầu thế kỷ 20.
Thi nhân Hàn Mặc Tử viết về thôn Vĩ không chỉ để miêu tả một Huế thơ, Huế mộng mà là để diễn tả tận cùng cái bi kịch của một án tử khi mà sức sáng tạo đang ở độ sung mãn nhất. Thơ Hàn Mặc Tử chủ yếu là hướng nội. Mỗi lời thơ như được viết ra từ niềm khắc khoải của một người thi nhân hoạn nạn nơi trần giới. Lời thơ trong “Đây thôn Vĩ Dạ” như là sự chới với giữa hai bờ hi vọng và tuyệt vọng: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay”. Lời thơ như lời thỉnh cầu, có “kịp” hay không. Cái án tử kia đang treo lơ lửng trước mặt. Nó khắc khoải như rớm máu! Cái logic của bài thơ là tình người và cảnh đời thôn Vĩ đẹp thế nhưng đã ngoài tầm tay với mất rồi.
Huy Cận viết “Tràng giang” không phải để viết về dòng chảy của một con sông mà nhà thơ bộc lộ dòng chảy của một cái tôi nội cảm, nỗi cô đơn của “một chiếc linh hồn nhỏ” giữa một vũ trụ rộng lớn, vô thuỷ vô chung “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót/ Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Cảm thức về thân phận nô lệ ám ảnh người thơ trong một niềm “cô liêu” giữa sông dài – trời rộng.
Nỗi buồn ấy cũng là nỗi buồn của cả thời đại, nỗi buồn của một tầng lớp trí thức đau đời mà bất lực; Là Xuân Diệu: “Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề”; Là Thạch Lam: “Liên không sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác…”
Là Nam Cao diễn tả một Chí Phèo giãy giụa vì bị chà đạp. Con người cô đơn đến mức thèm một lời giao tiếp của đồng loại mà không được. Để rồi giãy giụa, quằn quại, trong sự ghẻ lạnh ghê tởm của đồng loại: “Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Thế có khổ hắn không? Thế có phí rượu không?”.
Chí mượn rượu để chửi và mong có ai đó chửi chí. Nhưng cả xã hội đều quay lưng lại với hắn. Bởi vậy tiếng chửi của Chí không hẳn là tiếng chửi của một gã say rượu mà là một niềm cô độc đang giãy giụa vì bị chà đạp. Viết những dòng này, nhà văn muốn lên án cái xã hội phi nhân tính, một xã hội thù địch với con người.
Nhà văn Bảo Ninh với “Nỗi buồn chiến tranh” đã đáp ứng được nhu cầu của xã hội về một tác phẩm mang tầm vóc của lịch sử. Tác phẩm không hề ngợi ca sự toàn thắng mà diễn tả thật sâu thật ấn tượng cái nhìn về cuộc chiến.
Chiến tranh đồng nghĩa với huỷ diệt tất cả: Tình yêu, nhân phẩm và cả quyền được làm người. Tác giả không né tránh hiện thực mà dám nhìn thẳng vào một hiện thực thô ráp, khốc liệt. Tôi nhớ lời của một nhà phê bình văn học nói: “Nhân vật văn học thực hơn cả con người thực”. Vì vậy những nhân vật như, Kiên, Phương, Can… giống như là những mẫu người từ đời thực bước vào, không cần một chút dụng công nào. Nhưng tất cả đều rất sống rất dụng công để tạc nên những con người, những mảnh đời cụ thể. Mỗi người một diện mạo. Mỗi nhân vật có sức khái quát riêng cho một mẫu người ở ngoài đời thực. Và nhà văn đặt từng nhân vật trong từng số phận cụ thể để họ phải tự là họ. Một Kiên gặm nhấm nỗi buồn trước mọi biến cố của riêng mình, của đồng đội mình và của lịch sử. Một Phương yêu hết mình, cháy hết mình để rồi rốt cuộc chỉ là một kiếp phù du trong xã hội lấm lem tro bụi của cuộc chiến. Một Can bất mãn vì thực tế không thể đáp ứng được nhu cầu của anh… tất cả nó là thật.
2. Khả năng diễn đạt có tầm quan trọng như thế nào?
Đây là vấn đề tối quan trọng của người cầm bút. Một nghệ sĩ có tài, đôi khi chỉ vài câu thơ đã vẽ ra được tất cả điều mình muốn bộc lộ. Nguyễn Du trong Truyện Kiều sử dụng chủ yếu hai bút pháp: Tả thực và ước lệ. Bút pháp tả thực chủ yếu để vẽ chân dung những nhân vật phản diện, những điều dung tục, tầm thường. Hình ảnh ước lệ để diễn tả cái đẹp, cái cao cả, phi phàm.
Chỉ với hai câu thơ tác giả đã lột tả chân dung của Tú Bà từ ngoại hình đến tính cách “Nhác trông lờn lợt màu da/ Ăn chi cao lớn đẫy đà làm sao”. Đó là cách nhà thơ phác họa chân dung của một tên trùm hổ cái nhà chứa. Hay để khắc hoạ chân dung Từ Hải, nhà thơ sử dụng hình ảnh tượng trưng: “Râu hùm, hàm én, mày ngài/ Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”. Từ hiện lên với một tướng mạo kiêu dũng; là hiện thân cho mẫu nhân vật người anh hùng trong văn học Trung đại.
Nhà văn phải là nhà nghệ thuật ngôn từ. Mỗi người nghệ sĩ luôn có một vùng không gian riêng cho sáng tạo. Cần thấy trong thời đại thơ mới, đội ngũ sáng tác rất đông đảo nhưng mỗi người nghệ sĩ có một vùng sáng chữ nghĩa riêng. Xuân Diệu thì rất cầu kỳ, rất Tây. Huy Cận thì ôm mối sầu thiên cổ. Nguyễn Bính thì tìm về với làng mạc, với “Chân quê”. Hàn Mặc Tử thì tìm đến với trăng như tìm về với Thiên giới, với đấng cứu rỗi.
Cùng thời, các nhà văn cũng mỗi người một giọng điệu, một sở trường. Nam Cao lời văn luôn như rớm máu: “Ai cho tao lương thiện”;“hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra cái thằng Chí Phèo cho hắn khổ thế này”. Nguyễn Công Hoan thì cười ra nước mắt. Vũ Trọng phụng thì trào phúng mà góc cạnh. Nguyễn Tuân thì cầu kỳ trong hành trình đi tìm cái đẹp. Thạch Lam thì đôn hậu, nhẹ nhàng.
Có thể thấy người sáng tạo trước hết phải là người có vốn sống, sau đó là vốn ngôn từ. Ngôn ngữ là sản phẩm chung của công đồng nhưng ngôn từ là tiếng nói riêng của người nghệ sĩ. Một câu thơ hay, một đoạn văn xuất sắc luôn đem đến cho người đọc khoái cảm thẩm mỹ đặc biệt. Đọc đoạn văn mở đầu của Chí Phèo, người ta phải khóc, phải dằn vật, phải muốn đứng lên: “Hắn vừa đi vừa chửi…chửi trời… chửi đời… chửi cả làng Vũ Đại…chửi cha mẹ đứa nào không chửi nhau với Chí… chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra Chí”. Rõ ràng, vùng không gian Chí hướng tới, thu hẹp dần lại như là một phép loại trừ. Trời rộng quá, chửi đời cho gần hơn. Đời không quan tâm thì chửi làng. Cũng không ai lên tiếng, hắn chửi cha mẹ đứa nào không chửi nhau với hắn. Cũng chẳng thèm ai quan tâm. Hắn nhận ra sự cô độc của mình và tìm cái “đứa chết mẹ nào đẻ ra hắn” mà chửi. Quả là bậc thầy của nghệ thuật mới có thể chọn được một cái logic say mà rất tỉnh của một nhân vật điển hình trong một hoàn cảnh điển hình như thế.
Vốn ngôn từ là cơ sở để xây dựng tác phẩm nhưng kỹ năng diễn đạt chính là phẩm chất nghệ sĩ của nhà văn. Đôi khi một hình ảnh phi lý trong nghệ thuật lại trở thành một điểm sáng trong sáng tạo. Huy Cận viết:“Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót”. Trong thực tế chữ “chót vót” chỉ độc quyền kết hợp với chữ “cao”. Sự kết hợp phi logic này đã tạo nên một hiệu ứng thẩm mỹ mới, từ độ cao của bầu trời, người ta thấy cả chiều sâu vô biên ở đấy. Một cách hiểu khác nữa, bầu trời trong đáy nước “Tràng giang” nó sâu thăm thẳm. Và không gian như mở ra đa chiều: chiều cao của trời và chiều sâu của nước, chiều dài của sông “sông dài”, chiều rộng của vũ trụ “trời rộng”
Đôi khi một từ mà làm cho thơ trở nên thơ hơn. Trong thơ thất ngôn người ta thường hay chú ý đến “nhãn tự”, “thần cú” là vậy.
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi có câu: “Những dòng sông đỏ nặng phù sa”. Trong thực tế chữ “nặng” chỉ kết hợp được với động từ như: chở, khiêng, vác… nhưng tác giả lại kết hợp với tính từ chỉ màu sắc. Chính sự phi logic này làm cho thơ trở nên đẹp hơn. Người đọc nhận thấy trong bức tranh nghệ thuật ấy vừa có lượng (nặng), vừa có sắc màu (đỏ). Vì vậy nó chuyên chở thành công cái tình của tác giả với đất nước và cái nhìn hội họa trong thơ.
Có thể thấy để diễn đạt cho thành văn, người viết cần có kỹ năng sử dụng từ, câu, đoạn…thật linh hoạt.
Yếu tố giọng điệu cũng làm nên thành công lớn cho sáng tác: Vui, buồn, trầm lắng hay hùng tráng… đều có sức chuyên chở nội dung rất lớn. Nếu như Nam Cao luôn có cái giọng điệu chua chát để diễn tả cái thảm kịch của phận người trong thời đại ông thì Thạch Lam là một nhà văn có giọng điệu nhẹ nhàng mà đôn hậu, là một kiểu hành văn đầy chất thơ. Sức hấp dẫn trong truyện ngắn của ông không phải là những xung đột gay cấn mà là một chất thơ vời vợi bay lên từ cảnh vật và hồn người. Bạn đọc yêu mến Thạch Lam bởi lối hành văn đặc biệt như thế.
Ngày nay, công chúng đọc giả ngày càng khó tính hơn, nhu cầu thẩm mỹ ngày càng đòi hỏi cao hơn. Vì vậy để có một sáng tác có giá trị, người viết phải hội tụ được nhiều yếu tố: tài, trí và tâm. Trong số những điều tạo nên tài thì tài diễn đạt là một trong những yếu tố quan trọng để đưa tác phẩm văn học đến được gần với độc giả.
Kết luận:
Văn là đẹp, nhưng để làm nên một tác phẩm văn học có giá trị bên cạnh cái tâm sáng, cái tình sâu thì cái tài tổ chức, sắp xếp, đặc biệt là khả năng diễn đạt là tối cần thiết để tạo nên hiệu ứng thẩm mỹ!