Vài nét về tác giả:
Tác giả Nguyễn Cao Thâm, tên thường gọi là Cao Thâm, bút danh: Minh Cao; sinh năm 1957 tại Hồng Thành, Yên Thành, Nghệ An; thường trú tại Hà Nội. Ông nguyên là phó tổng biên tập các báo, tạp chí: Báo Bắc Kạn; Tạp chí Than Việt Nam; Tạp chí Doanh nghiệp & Hội nhập; Báo Điện tử Doanh nghiệp Việt Nam; Tổng Biên tập, Chủ tịch HĐBT Tạp chí Lao động & Sáng tạo.
Đến nay, ông đã cho xuất bản trên 20 đầu sách với các thể loại: Tiểu thuyết, Truyện ngắn; Kịch bản sân khấu & Điện ảnh; Phóng sự và chủ biên hơn 30 bộ sách lịch sử, lịch sử truyền thống, nghiên cứu văn hóa… cho các tỉnh và các ngành: Than – Khoáng sản, Giao thông – Vận tải, Bưu điện, Y tế, Giáo dục – Đào tạo..v.v…
Tạp chí Nhà Văn & Cuộc Sống xin giới thiệu với bạn đọc chùm truyện ngắn của Nguyễn Cao Thâm.
CON NGƯỜI UYÊN BÁC
Tiểu phẩm của Cao Thâm
Chỉ nhìn bề ngoài đã thấy chú Hải toát lên vẻ uyên bác. Mắt chú sáng, trán hói xộc lên đỉnh đầu; mái tóc chải ngược lên bóng lộn dễ chừng làm người đi thuận sáng nhìn vào bị lóa mắt! Còn vốn hiểu biết của chú, theo tôi, đó là trái núi tri thức di động. Những kì quan thế giới, sự phát triển của đồ gốm, của hạt nhân, của công nghệ tin học, nhân bản gen… ở trong cái đầu hói của chú, có hết; kể cả tranh của Vangốc, thơ của Puskin, nhạc của Sôpanh, kịch của Sếchspia… cũng chứa đựng trong cái đầu hói. Vào tuổi tôi, người ta thường hâm mộ những ngôi sao sân cỏ hay các tài tử điện ảnh. Riêng tôi, tôi hâm mộ chú Hải, thần tượng của tôi là chú Hải.
Nghe đâu trước kia chú làm việc ở một viện nghiên cứu dưới Hà Nội. Nhưng chú xin lên trên này để làm việc vì được gần cô Thơm – vợ chú. Hằng ngày, không biết công việc của chú ở cơ quan gồm những gì, nhưng tôi tin là công việc chẳng xứng gì so với năng lực của chú nên mới nhàn nhã thế. Thường, tôi thấy chú hay đảo qua nhà, cời bếp lò, cho lợn ăn, thái chuối, thi thoảng bắt gặp chú ngồi ở quán. Chú chỉ ngồi uống nước, hút thuốc và nói chuyện. Thuốc chú hút là thức thuốc cuốn, hai trăm đồng chục điếu, chuyện chú kể tạp nham, không đầu không cuối. Nghe chuyện, người tinh ý thấy toát lên một chủ đề lớn, rằng, chú Hải đã từng sống một quãng đời vẻ vang.
Một hôm, tôi sang nhà chú để mượn cuốn sách, thấy chú mặc độc chiếc quần đùi bờn bợt, ngồi xổm bên chậu tã. Hình như ngượng với tôi, mặt chú đỏ lựng. Chú chép miệng thở dài:
-Khổ thế đấy cháu ạ, trí thức nước mình cứ phải bù đầu vào những việc tẹp nhẹp thế này thì còn làm ăn cái nỗi gì! Ngày xưa, đến như ông giáo Thứ còn có thằng Mô để mà sai vặt.
Bỗng, từ trong buồng vọng ra giọng nói xoe xóe của người đàn bà:
-Ngày xưa! Lúc… đ… nào cũng ngày xưa.
Tôi đánh mắt nhìn vào và nhận ra thím Thơm. Thím đang ngồi ở giường, vén áo tận ngực cho con bú. Chú Hải lặng lẽ bẽ bàng trước tôi, mặt chú đỏ hẩy, môi lập bập. Tôi đoán, từ cái miệng lập bập kia sắp gầm lên. Sao vô ý thế! Chú đã nói động gì đến thím mà thím văng tục. Nhưng không, từ cái miệng lập bập ấy dểu lên thành nụ cười gượng gạo:
-Mẹ mày buồn cười… cứ toàn chấp vặt!
-Nhưng mà ngứa tai! – Thím đốp ngay – Lúc…đ… nào cũng mở cái giọng hoài cổ. Rằng, ngày xưa… ta đây tài lắm! Tài giỏi thì nó còn nơi ông chứ đâu mất. Làm như mèo mửa lại còn…
Trời đất! Thím suy diễn tùy tiện quá! Đang từ câu nói vu vơ của chú mà thím chộp vào đấy để nhiếc móc, để xỉa xói thì thật là quá thể. Mà chú không tài giỏi thì còn ai! Trong tay hai bằng đại học. Kiến thức tầng tầng, lớp lớp, vùng này đã ai sánh kịp. Chú là tri thức chân chính. Thời buổi này, đồng lương còm cõi thì bù vào chủ đã băm bèo, thái chuối, rửa chuồng lợn, giặt tã… mà không kêu ca, phàn nàn gì cả. Thử hỏi, còn người đàn ông nào tốt như chú? Mà cũng tại vì thím nên chú mới xin về đây, giờ chú phải khổ thế. Giá chú cứ ở viện nghiên cứu xem nào. Biết đâu, với kiến thức ấy, chú sẽ phát minh ra những chuyện động trời. Nghĩ thế, tôi lên tiếng bênh chú:
-Thím ơi, cháu thấy chú Hải là nhất. Chẳng qua về đây chú bị hãm tài…
– Gớm!… – Thím dài giọng – Ở đâu thì cũng phải biết tính toán mà làm ăn. Mày tính, nhà có mỗi con lợn, ngày ăn hết bao nhiêu cám, bao nhiêu rau và xem nó lớn được mấy cân? Áp với giá thị trường thấy lỗ thì bán quách. Đằng này, tao về quê nghỉ đẻ mấy tháng, lên vẫn thấy ông ấy bê cám hầu con lợn. Mà lợn có ra lợn đâu, đít nhọn như cái bay! Sao có người ngu thế. Cử nhân kinh tế phải biết vận ngay vào đấy chứ ở đâu. Đằng này cứ ù ù cạc cạc. Lại còn mang cả sách Liên Xô ra chuồng lợn mà tra cứu mới rởm đời.
Từ đó tôi nghĩ mãi về chú, tôi thương chú quá. Con người chú đã từng hiểu hết cả đông, tây, kim, cổ, vậy mà ngày nào cũng bê cám lợn, giặt tã, hầu vợ, còn bị vợ mắng cho xa xả, vẫn im lặng nín chịu. Chẳng bù cho bố tôi. Cả đời bố không đi đâu xa, cả đời không đọc báo, đọc sách. Mặc dù học hết lớp ba “bình dân học vụ” nhưng bố không viết nổi cái đơn vay tiền ngân hàng. Bố chỉ huy cả nhà đóng gạch, nung vôi. Bố không nhúng tay vào việc nào cụ thể, chỉ nói, quát. Vậy mà cả nhà răm rắp tuân lệnh. Còn chú Hải đáng kính của tôi thì…
Thỉnh thoảng tôi vẫn sang thăm chú, chú lại kể chuyện cho tôi nghe. Nguồn tri thức trong chú tuôn chảy lai láng. Tôi là đứa mới hết phổ thông, sống quẩn quanh ở cái thị xã miền sơn cước nhỏ bé và hiu quạnh. Tôi khao khát được đi xa, được hiểu biết những điều mới lạ. Chính chú Hải đã mở rộng tầm hiểu biết của tôi. Chú đưa tôi đến những chân trời khoa học; những nhà máy khổng lồ mà người điều khiển nó qua những nốt bấm…
Một buổi chiều chú rủ tôi vào quán nước. Nhìn khuôn mặt chú đỏ gay, điệu bộ khẩn khoản, tôi đoán là có sự gì rất quan trọng đã xảy ra với chú.
-Uống nước đi mày!
Chú đẩy chén nước nhợt nhạt về phía tôi. Tôi thấy lạ, không hiểu sao trước đây chú nhũn nhặn mà bây giờ chú “nhắng” thế (tôi không có cách nào diễn đạt hơn). Trông chú như ngồi trên đống lửa. Chú nhấp nhổm đứng ngồi, giọng hằn học:
-Ở đời buồn lắm mày ạ. Con giun ngoi lên làm người…
Chú chưa bao giờ gọi tôi là mày và nói năng lỗ mãng như vậy. Tôi biết chú giận lắm. Nhưng giận ai? Tôi rụt rè hỏi:
-Thưa chú, có chuyện gì làm chú bực mình phải không ạ?
Chú trợn mắt và vung tay lên:
-Sao phải bực! Tao khinh! Mày biết không, nó là con nhà sơn tràng, học xong lớp bảy bổ túc đi lâm trường. Thế mà ta đây lên mặt.
-Thưa chú, cháu vẫn chưa hiểu chú nói gì ạ!
-Cái thằng Ma Văn Ngưu, tai dơi mặt chuột chứ còn ai nữa! Ngữ ấy chỉ có cái tài bám đít lãnh đạo.
Vậy là tôi hiểu! Thì ra chú đang bất mãn với chú Ngưu nào đấy cùng cơ quan, nhưng không biết san sẻ cùng ai, giờ gặp tôi, chú chia sẻ nỗi ấm ức ách trong lòng. Nhưng tôi thì giúp gì được cho chú? Ngay như cái chú “tai dơi, mặt chuột” ấy tôi cũng chưa biết mặt. Tôi nhìn chú ái ngại.
Bỗng, ngoài cửa quán xuất hiện một người đàn ông nhỏ thó, da đen, mặt nhọn như lưỡi cày, tai quắt và mỏng như cái nấm mèo. Bà chủ quán đon đả mời:
-A, chú Ngưu. Mời chú vào xơi nước.
Chú Ngưu không đáp lại bà chủ quán mà liếc cặp mắt ti hí về phía chú Hải và nói giọng trịch thượng:
-Thế nào ông Hải, giờ này là giờ gì mà ông…?
Mặt chú Hải tái nhợt như bụng cá, giọng lắp bắp:
-Tôi… tôi… à, rét quá đành tạt vào uống chén rượu cho ấm bụng. Anh uống với tôi chén rượu nhá?
Chẳng đợi chú Ngưu có đồng ý hay không, chú Hải liền với tay lấy chai rượu rót đầy một chén. Chú Ngưu lừ lừ ngồi xuống, cầm chén rượu lên uống một hơi, miệng chịp chịp rồi nhón mấy hạt lạc:
-Cái bảng tổng hợp ông làm sai bét cả. Hừm, lạc rang hơi cháy.
Ngoài cửa quán lại xuất hiện mấy người đàn ông, họ reo lên:
-A, chào “sếp”, cả ông Hải nữa, vào đây chúng mày ơi, ông Hải khao.
Thế là mấy người quây vào bàn, rót rượu uống nháo nhào. Tôi đang xem một màn tuồng. Hồi nãy, thần tượng của tôi vung tay thóa mạ kẻ vô học “tai dơi, mặt chuột” thì giờ đây chính kẻ ấy lại được chú kính cẩn mời rượu, gương mặt lưỡi cày vênh vênh, còn chú thì xo ro đến tội nghiệp. Ngoài trời gió rít từng đợt, ở trong quán không khí rộ lên. Chú Hải là trung tâm cho họ mơn trớn. Họ khen chú Hải đẹp trai, học cao, hiểu rộng. Đương nhiên rồi! Nhưng tôi biết rằng, trong những lời khen đó hàm chứa sự cợt nhả. Vậy mà chú Hải tưởng thật, gương mặt hân hoan. Và tôi chợt hiểu, thì ra bấy nay thần tượng của tôi không những bị vợ khinh nhờn mà ngay cả anh em trong cơ quan cũng coi chú là kẻ hâm hâm, vô tích sự. Hồi nãy, họ khen chú Hải, giờ họ lại chê rằng, chú chỉ lý thuyết suông, rằng, kỹ sư mà lắp cái công tắc điện cũng không biết…
– Sao không! – Chú Hải trợn mắt, vung tay lên.
Bà chủ quán chộp thời cơ ngay:
-Vậy chú Hải ơi, tôi có sợi dây điện đang đứt, nhờ chú giúp tôi…
-Xong ngay! Đối với ông Hải phút một chứ mấy – một chú trong đám đông nói.
Tình huống đó bắt buộc chú Hải khó từ chối.
Đó là cây cột điện bằng tre trước quán. Đầu cột, dây điện bám chằng chịt, một dây đứt treo thòng lòng. Việc sửa chữa khi chưa cắt điện là rất nguy hiểm. Nhưng chú Hải của tôi dại dột leo lên, trong tay không một dụng cụ về điện. Tôi hoảng quá ngăn chú Hải, nhưng tiếng của tôi bị át bởi tiếng reo hò ầm ầm của mọi người. Chú đã leo lên đầu cột, bàn chân của chú bám vào mấu tre run bần bật. Tay chú lập cập với lên cao. Bỗng, một tia lửa xanh lét nhoằng ra, kèm theo tiếng “rẹt”. Chú Hải rú lên kinh hoàng rồi rơi bịch xuống đất…
Sau cú nhảy dù thục mạng ấy, chú Hải phải nằm viện hơn tháng rời. Ra viện, người chú béo trắng! Gặp ai, chú cũng khoe “tăng năm ký”. Rồi chú giải thích, lẽ sau khi điện giật, môi trường ion trong cơ thể được cân bằng nên ăn khỏe, ngủ khỏe lắm.
CON NGƯỜI ĐỔ ĐỐN
Tiểu phầm của Cao Thâm
Có người cho rằng, làng tôi có tên là làng Gạo là bởi, các cụ xưa từ mạn xuôi lên đây khai hoang, đói ăn triền miên nên mơ ước sau này con cháu làm ra nhiều gạo. Người khác lại giải thích, đơn giản vì làng tôi có cây gạo. Cây gạo đứng ở đầu làng. Thân cây nham nhở những hình thù kỳ quái, tục tĩu bởi những vết khắc của lũ trẻ chăn trâu. Từ đường cái quan nhìn vào, vòm cây nhô lên trước những mái nhà sàn lúp xúp. Vào quãng tháng Ba, vòm cây đỏ rực như tảng máu lớn.
Mấy năm nay, nhờ áp dụng giống lúa mới, kĩ thuật thâm canh mới nên dân làng tôi không còn thiếu về gạo. Nhưng điều đáng buồn là cả làng không có lấy một người nổi tiếng.
Thực ra, làng tôi cũng có hai ông học cao nhưng đều vứt. Bác phó cạo, học tổng hợp văn, từng làm cán bộ biên tập ở Hội Văn nghệ tỉnh nhưng khi gặp khó khăn, thối chí, bỏ việc, về làng mở hiệu cắt tóc. Ông phó cối cũng vứt. Ông từng học nghề viết văn, hệ đại học. Bác phó cạo thường thắc mắc, sao lại có cái trường lạ lùng, dạy người ta viết văn nhỉ? Viết văn là công việc sáng tạo đặc biệt của những cá nhân có tư tưởng và tâm hồn lớn nhưng bị chèn ép, buộc phải “bục” ra để giải thoát, cần gì ai dạy? Ngày xưa, cụ Nguyễn Trãi, cụ Nguyễn Du chẳng được học viết văn, làm thơ mà để lại cho hậu thế những áng văn thơ bất hủ. Chẳng hóa ra, bác phó cối làng Gạo học tới đại học viết văn chắc hẳn, sáng tác của bác sẽ vượt qua cả cụ… Nguyễn Du ư! Nhưng dân làng Gạo đã thất vọng! Tốt nghiệp đại học, chẳng thấy bác phó cối viết lách gì, chỉ thấy chê câu đối ở đình làng chưa chuẩn; chê thơ Đường các cụ trong làng chưa đúng niêm luật; chê các tiết mục văn nghệ của xã lôm côm. Bác phó cối làm cán bộ tuyên truyền trên huyện, hàng ngày vác loa đi theo đội thông tin lưu động, vận động nhân dân đặt vòng tránh thai, đình sản… Được mấy năm, bác phó cối bị đuổi việc vì dám chửi ông chủ tịch huyện ngu, chửi cả huyện ngu, nay về làng làm nghề đục cối lỗ.
Mới đây, đột nhiên làng tôi xuất hiện một nhà thơ. Thực ra cái tên nhà thơ là do dân làng đặt cho chứ thơ anh chưa bao giờ được đăng lên báo. Tên cúng cơm của anh là Nhu – Ma Văn Nhu – trước mọi người anh tự giới thiệu mình là Mai Nhu. Anh giải thích, anh sùng bái thơ Maiacốpski (nhà thơ Nga) nên tôn nhà thơ vĩ đại này là bậc sư huynh!
Từ ngày anh Nhu làm thơ, vợ anh thường mắng nhiếc anh là cái đồ đổ đốn; gọi nghề làm thơ là công việc đổ đốn! Anh Nhu người nhỏ thó, mặt quắt, nhằng nhịt những vết nhăn nom giống quả đu đủ đực bị héo. Bộ ria mép thưa, mọc từ hai chân mũi khoanh cái mồm của anh lại, trông như miệng điếu cày. Tóc anh lúc nào cũng xù ra, không chải và hình như không chải được. Quần áo anh mặc thường là vải sáng màu. Có điều, anh ít quần áo để thay, lại không thường xuyên giặt giũ, nên nó nhàu nát, loang lổ màu cháo lòng và hôi hám quá! Được cái anh lúc nào cũng sơ vin, không đeo dây lưng, bên ngoài khoác áo gile nên ra dáng nghệ sĩ tợn!
Nơi anh Nhu hay lui tới đọc thơ là gốc cây gạo. Ở đấy là nơi tụ tập của những người đi chợ vào nghỉ chân trú nắng, những người chờ cắt tóc ở quán ông phó cạo và cả lũ trẻ chăn trâu. Trước đám đông không phải anh đọc thơ mà là hét. Anh hét rằng:
“Trăng
Nhễ nhại
Bên hồ
Ngọn gió hoang
Lang thang
Bờ suối vắng
Sơn nữ
Áo chàm
Mê đắm
Bầy liếu điếu trong vòm cây
Nghe
Nghe
Đàn dê con
Trong chuồng
Quậy phá…”
Tôi không hiểu gì về những điều anh hét. Nhưng nhìn tóc anh xù lên, mồm sùi bọt mép, mặt co rút như lên cơn động kinh, tôi gai hết người. Đám đông thì vỗ tay hò hét, yêu cầu anh đọc tiếp. Tôi biết, sự tán thưởng của mọi người là sự bỡn cợt, nhạo báng. Nhưng anh Nhu tưởng đó là sự hâm mộ mình nên cao hứng đọc tiếp. Lần này tôi lờ mờ hiểu rằng, hình như anh đang nói về cái chết:
“Cái chết ơi
Mi ở đáy vực
Há toác
Đen ngòm
Ta
Gã đàn ông giang hồ phiêu bạt
Ta đi qua trận mạc
Đói khổ và đạn bom
Qua những cánh rừng
Đầy quạ đen và hơi độc
Ôi cái chết
Mi chẳng có gì đáng sợ!…”
Đám đông lại rú lên. Bà Xuyền nhổ bãi nước trầu rồi rằng:
– Này, tôi hỏi nhà thơ: Nhà thơ bảo mình là gã giang hồ phiêu bạt, vậy ông đã phiêu bạt những đâu? Ông đi bộ đội ngày nào mà biết cả cánh rừng nhiều quạ đen và hơi độc, hử?
Bị dồn vào thế bí, anh Nhu ngẩn mặt, miệng dểu ra, bộ râu lúc này giống như dấu hỏi. Rất may, ông phó cối nhanh nhảu đỡ lời:
– Thế mới tài! Nghệ sĩ người ta còn tưởng tượng ra đủ thứ ở trên đời ấy chứ. Bà xem vô tuyến thì biết đấy… Trên đường này làm gì có…
Ông phó cối chưa ngừng lời thì bất ngờ, thằng Thiên con nhà Thăng vớ đâu con cóc cụ, thả vào chân anh Nhu. Anh Nhu rú lên chạy thục mạng.
… Có một sự kiện làm dân làng Gạo bất ngờ, đó là tập thơ “Gió hoang” của anh Nhu ra đời. Tập thơ tập hợp những bài mà anh từng đọc cho dân làng nghe dưới gốc cây gạo. Thơ được tin trên giấy tốt. Bìa trước in một cô gái mặc áo tắm, ngồi hớ hênh trên dòng suối. Góc trái bìa bốn là ảnh anh Nhu, với gương mặt như trên đã miêu tả. Sự kiện này khiến dân làng đánh giá lại anh Nhu. Riêng tôi cũng có cảm giác rằng, những bài thơ mà mọi người đùa cợt anh Nhu như chứa đựng những điều cao siêu, huyền bí, tôi không thể hiểu nổi, dân làng tôi cũng không hiểu nổi. Và giờ đây, mái tóc, bộ râu, bộ quần áo của anh Nhu xem ra có vẻ thuận mắt. Hóa ra, trong cái dị lập, ngồ ngộ hâm hâm của anh Nhu như chứa đựng một tâm hồn lớn, tài năng lớn. Dân làng tôi, cả đời chỉ biết kiếm gạo, không phát hiện ra.
Trong làng chỉ có ông phó cạo là phê phán thơ anh Nhu kịch liệt. Mỗi khi có ai đó nhắc về thơ anh Nhu trước mặt ông, ông nổi khùng:
– Thơ gì? Thơ con cóc, thơ tắc tị!…
Biết ông là một trong hai người nhiều chữ nhất làng nên chẳng ai dám tranh luận. Duy chỉ ông phó cối, là anh em thúc bá với anh Nhu, thi thoảng lại được anh Nhu mời uống rượu lòng lợn tiết canh, lớn tiếng vặc lại. Tuy nhiên, để chứng tỏ mình là người “đông” văn hóa nhờ học ở trường đại học Viết văn Nguyễn Du, lại lượm lặt được từ những chuyến đi kiếm ăn trong thiên hạ, ông phó cối có vẻ khiêm nhường:
– Thưa bác, tôi thiển nghĩ, một khi nhà xuất bản đã cho in thì rõ ràng thơ của anh Nhu được nhân dân cả nước đọc chứ không đùa đâu bác ạ.
Ông phó cạo băm bổ:
– Ai đọc tôi không cần biết. Riêng tôi, những câu chữ được gọi là thơ ấy nó vô nghĩa và dung tục lắm.
– Ô hay, đấy không phải là thơ, vậy là gì, thưa bác? Bác không được đi nhiều nên không hiểu tình hình thời sự văn nghệ hiện nay rồi. Bác ơi, chính những thứ câu chữ được ghép thành vần điệu mà lâu nay ta vẫn quen gọi là thơ ấy, mới là thứ đáng xổ toẹt. Giờ đây, thi ca hiện đại người ta đề cao chất tâm linh. Thậm chí người ta còn quan niệm rằng, thơ chỉ là cái bóng của chữ, nhìn vào thì thấy sướng mắt; đọc lên nghe sướng lỗ tai. Tôi nghĩ, thơ hãy cứ đáp ứng được hai nhu cầu ấy của con người đã là điều quá sức đối với nhà thơ. Cần gì phải gò ép, lệ thuộc vào ý tứ, khuôn mẫu, phải không ạ?
Ông phó cạo ngừng cắt tóc. Cái kéo trên tay chĩa vào ông phó cối như sắp nhảy vào cuộc ẩu chiến. Giọng ông sắc lẻm như tiếng kéo xén tóc:
– Các ông muốn quan niệm về nhà thơ như thế nào, mặc. Riêng tôi, những loại thơ như của anh Nhu anh nhiếc gì đấy, ít nhất là không phải thơ Việt Nam, nếu không nói đó là sản phẩm của thói hư danh bệnh hoạn, muốn khác người, muốn nổi tiếng đành bày đặt ra một thứ hình thức méo mó, lập dị để lòe bịp mọi người. Theo tôi, nghệ thuật muốn đạt độ siêu lại là cách thể hiện sao cho giản dị nhất.
Bác phó cối giận run người:
– Ông thì biết cái gì? Quanh năm ngồi gốc cây gạo, biết gì mà lớn tiếng!
– Còn ông quanh năm bới ăn ở lỗ cối, cùng lắm nghe lỏm, học đòi chuyện người khác chứ hơn gì tôi mà đòi tranh luận về học thuật?
Ông phó cối dứ dứ cái đục vào ông phó cạo, mà rằng:
– Này, thằng già! Mày là cái thằng đầu chày đít thớt, chứ hơn gì tao…
Cuộc đấu khẩu giữa hai bác phó lúc đầu có vẻ như tranh luận về học thuật, bỗng trở thành cuộc cãi vã thô lậu, sặc mùi chợ búa. Khiến thơ văn và thịt chó, thi sĩ và lưu manh, lộn tùng phèo hết cả, dân làng Gạo chẳng biết ai đúng, ai sai…
Bà Xuyền nhổ toẹt bãi nước trầu ra khỏi miệng, rồi rằng:
– Thôi, thôi, em xin hai bác. Ai lại người nhớn mà mang chuyện riêng của nhau ra réo chửi như thế, dân làng người ta cười cho! Mà em “lói” khí không phải, các bác đừng cười chứ thơ văn là phải đặt được những bài thơ như truyện Kiều, hay bài gì mà có đoạn “em ơi em ở lại nhà…” ấy hai bác nhẩy? À, phải rồi, bài “Lỡ bước sang ngang” của Nguyễn Bính… Đấy, đặt thơ phải đặt được những bài như thế mới mê li. Còn thơ của cái chú Nhu, em cấm hiểu cái cóc khô gì sất.
Rốt cục, trong cuộc cãi vã giữa hai bác phó, bác nào cũng bị thiệt hại, chỉ có anh Nhu là được lãi. Nhờ có cuộc cãi vã mà tên tuổi anh Nhu nổi như cồn, có người bên tận làng Chum cũng muốn biết mặt mũi anh Nhu. Những lúc như thế anh Nhu mừng vui nhảy nhót như người lên đồng.
… Vẫn dưới gốc cây gạo. Anh Nhu đang cao hứng đọc thơ trước công chúng. Chợt, một người đàn bà sồ sề hộc tốc chạy tới. Chị rít lên:
– Trời ơi. Cái thằng đổ đốn. Lại thơ phú…
Nói rồi chị túm tóc anh Nhu lay kịch liệt. Mọi người kinh ngạc, không biết điều gì đã xảy ra. Bác phó cạo ngừng tông – đơ chạy tới can ngăn:
– Kìa. chị Nhu. Xin chị bình tĩnh…
– Bác bảo em bình tĩnh thế nào được. Ai lại chồng con, chẳng có lo chuyện làm ăn, suốt ngày mải mê chuyện thơ phú rồi nói năng bậy bạ linh tinh.
– Ô kìa, sao chị nói vậy? Anh ấy làm thơ được tiền nhuận bút lại được cả tiếng tăm còn gì!
Chị Nhu kêu khóc lồng lộn như bị chọc tiết:
– Ôi trời ơi. Lúc đầu em cũng tưởng thế nên nghe theo hắn, bán đi lứa lợn với hai tạ thóc để in thơ. Ai ngờ thơ ấy chỉ để hắn đi khoe. Giờ còn ba bó ở kèo nhà. Bọn làm pháo cũng chả thèm mua, vì Nhà nước cấm đốt pháo… Ối giời ơi, tôi xót của lắm bà con ơi! Công mẹ con tôi mấy tháng giời dậy sớm thức khuya làm lụng để cho hắn… Này! – Chị hướng về phía anh Nhu, nghiến răng kèn kẹt – Cái thằng đổ đốn kia!… Mày đi đâu kiếm ăn được thì đi. Đi đi cho khuất mắt bà!
Anh Nhu nấp ở gốc gạo. Gương mặt tái mét, ngây dại. Có lẽ anh sợ quá, không để ý rằng, ngay trên đầu anh, chỗ thân cây gạo, là hình vẽ tục tĩu của bọn trẻ trâu…
(Rút trong tập “Thần tượng” tập truyện ngắn, Nxb. Lao động, 2002).
CON NGƯỜI MỰC THƯỚC
Tiểu phẩm của Cao Thâm
Anh Ẩn vừa được cấp trên đề bạt chức trưởng phòng. Điều này khiến nhiều người trong cơ quan xì xào, bàn tán. Họ cho rằng một người có học vấn thấp, năng lực chẳng có gì xuất sắc mà được cấp trên cất nhắc, chẳng qua là anh Ẩn khéo nịnh nọt nên mới được nâng đỡ tới mức ấy.
Riêng Thúy, là đồng nghiệp, lại là hàng xóm với anh Ẩn thì cam đoan rằng, anh Ẩn không hề có thói xấu nịnh bợ. Để ý thì biết, anh Ẩn, với cấp trên cũng như cấp dưới, lúc nào anh cũng giữ một khoảng cách vừa phải đứng mực, chẳng vồn vã mặn mà cũng không thờ ơ lạnh nhạt, chẳng thân ai mà cũng chẳng ghét ai. Anh Ẩn lúc nào cũng bình bình với một dáng trầm tĩnh, đĩnh đạc và mực thước. Người thế mà bảo giỏi nịnh thì oan cho anh Ẩn quá.
Đành rằng, học vấn của anh Ẩn toàn chắp vá, trong chuyên môn chẳng có gì xuất sắc. Nhưng mọi người trong cơ quan hãy xem còn ai có khả năng lãnh đạo hơn anh Ẩn! Thôi thì mấy đồng chí đàn bà ngoa ngoắt lắm điều, đầu họ nặng về chợ búa, chồng con, chẳng dám so bì với anh đã đành, nhưng con cánh đàn ông thì đấy, mấy ông là kĩ sư, tiến sĩ cả đấy. Họ đã làm nên cơm cháo gì! Suốt ngày chỉ thấy họ uống nước chè suông, hút thuốc lào vặt rồi bàn luận toàn chuyện đâu đâu với giọng châm chọc, bất mãn, chứ có gì hơn anh Ẩn!
Xét ra, suất trưởng phòng ấy còn một vị nữa có “máu mặt” để tổ chức có thể nhòm tới, đó là Lức – chồng Thúy. Bởi, trong chuyên môn Lức là người xuất sắc nhất; có nhiều công trình nghiên cứu khoa học được giới chuyên môn đánh giá cao. Nhưng, tính nết anh Lức chẳng ra làm sao cả. Ai lại hơn ba chục tuổi đầu rồi mà Lức vẫn nói năng lôm côm, bỗ bã, ăn mặc thì lôi thôi. Nom anh ấy ngồi làm việc rất buồn cười; tóc xù lên, kính tụt xuống chóp mũi, tay gãi rôm, miệng chịp chịp cứ như là người lên đồng. Dưới con mắt mọi người, Lức là kẻ nheo nhếch, hâm hâm, ngộ ngộ. Người như thế mà làm lãnh đạo, nói ai nghe!
Đằng này anh Ẩn… Anh Ẩn hoàn hảo tới mức không thể chê trách điều gì. Như trên đã giới thiệu, chỉ nhìn bề ngoài đã thấy anh Ẩn toát lên một dáng trầm tĩnh, đĩnh đạc. Sự trầm tĩnh, đĩnh đạc khiến nhiều người cảm giác anh Ẩn cao quý trong sạch quá. Nói vô phép, đôi khi Thúy trộm nghĩ, loại người cao quý trong sạch như anh Ẩn có lẽ không vào nhà xí bao giờ! Còn trong công việc thì anh Ẩn là một mẫu mực về sự chính xác, thận trọng. Đến nỗi, mỗi sáng anh Ẩn dong xe đến cổng cơ quan là người bảo vệ chẳng cần xem đồng hồ, cứ yên tâm vác dùi ra mà gõ kẻng. Tính anh ít nói. Nhưng mỗi lời nói của anh đều rào trước đón sau, cân nhắc kỹ lưỡng, nói đúng chỗ, đúng lúc; chưa bao giờ nói hớ…
Nhiều khi nhìn anh Ẩn làm việc ở bàn, khuôn mặt trầm lặng, khép kín, mái tóc chải mượt mà, bàn tay trắng hồng cẩn trọng lật từng trang sách, Thúy ước ao chồng chị có được những đức tính tốt đẹp như anh Ẩn. Giá được như thế chồng Thúy sẽ tiến xa.
Nhà Thúy cách nhà anh Ẩn một bức tường trong khu tập thể cơ quan. Mọi chuyện xảy ra ở nhà này, nhà kia đều biết. Nói vậy thực ra chỉ có bên anh Ẩn biết chuyện nhà Thúy là nhiều. Những lời gắt gỏng của Thúy về sự tùy tiện bừa phứa trong sinh hoạt của anh chồng, hay những trận rượu, chè bù khú với bạn bè. Rượu vào lời ra. Nghe các vị ấy nói xem chừng họ sắp bốc trời bỏ bị tới nơi rồi. Nhưng phiền phức nhất là những lần tranh luận giữa vợ chồng Thúy mà nội dung lại có liên quan đến anh Ẩn. Thúy thì ý tứ nói nhỏ, còn ông chồng thì mang ra vài người để so sánh với anh Ẩn, giọng oang oang:
– Tóm lại, em biết tại sao ông ta được cấp trên tin tưởng đề bạt không?
– Xuỵt… – Thúy nháy mắt ra hiệu cho chồng im lặng rồi nhỏ nhẹ – Rõ ràng anh ấy đứng đắn chững chạc hơn các anh.
– Đếch phải! – Lức cao giọng – Mà là vì ông ấy ít nói lại có bộ mặt lạnh lùng, bí hiểm hơn người khác.
Thúy gắt:
– Nói thế mà nghe được!…
Lức phả một hơi thuốc lào rồi rằng:
– Đúng vậy! Chính sự lạnh lùng, bí hiểm ấy khiến mọi người không hiểu năng lực của anh ta tới đâu? Anh ta suy nghĩ gì? Buồn gì, vui gì? Sức mạnh con người là ở chỗ đó. Người đáng sợ nhất là người có bộ mặt đóng đinh không sụt; là người ta chưa hiểu gì về họ.
– Lộng ngôn! – Thúy gắt – Cái kiểu nói năng linh tinh bạt mạng ấy thế nào cũng có ngày…
Giọng Thúy chợt chùng xuống:
– Giá anh nghiêm túc hơn, sinh hoạt nền nếp hơn, nói năng cẩn thận hơn, chắc chắn suất trưởng phòng ấy chỉ dành cho anh chứ không ai khác.
Tưởng anh chồng cay cú về sự đánh tuột chức trưởng phòng để rồi từ nay hắn giữ mồm giữ miệng, thay đổi tính nết, đằng này hắn lại lí sự:
– Nền nếp, chuẩn mực là thói quen của con người. Nó được hình thành bởi nhưng hoạt động lặp đi lặp lại mà có. Nhưng theo anh, chỉ có cái máy thì nó mới không thấy nhàm chán khi phải lặp đi lặp lại như thế!
– Thôi ạ, nói chuyện với anh ngang chằng chằng. Chỉ có tôi là nhàm chán với cái kiểu ăn ngủ thất thường, thức khuya dậy muộn của anh thì có. Ai lại, sáng dậy đầu óc bơ phờ, mặt không kịp rửa, vội vội vàng vàng, cúc trên cài khuy dưới cứ thế ôm cặp đi. Từ nay tôi học tập anh Ẩn lập cái lịch sinh hoạt cho anh thực hiện, chứ không có tùy tiện, bừa phứa như vừa rồi đâu nhá…
… Bên gia đình anh Ẩn thì khác. Mọi hoạt động của gia đình đều có bài có bản, thứ tự thực hiện theo một chu trình khép kín, được quy định bằng thời gian biểu. Thằng Sỹ, con anh, có lịch riêng. Với thời gian biểu đó, ngày nào cũng như ngày nào, các thành viên trong gia đình anh Ẩn thực hiện răm rắp. Nhìn cảnh sinh hoạt của gia đình anh Ẩn, Thúy phát thèm.
Nhưng một sự kiện xảy ra có nguy cơ phá tan hạnh phúc êm đềm của cái gia đình nền nếp ấy. Hóa ra, sự bình yên bấy nay là báo hiệu sự đổ vỡ, cũng như trước mỗi cơn giông bão mặt biển thường phẳng lặng vậy.
Chuyện bắt đầu từ con cún. Đó là một con chó con bụ bẫm. Thằng Sỹ, con anh Ẩn, quý nó lắm. Đi học hay đi đá bóng nó đều dắt con cún đi theo. Đột nhiên mấy hôm rồi con cún ốm. Thằng Sỹ nấu cháo, bón từng thìa cho con cún. Nhưng có lẽ bệnh tình của con cún quá trầm trọng, nó chết, nằm co quắp ở góc sân, lông xù ra, mồm sùi dãi dớt.
Thúy phát hiện ra cái chết của con cún liền báo cho anh Ẩn. Anh Ẩn chạy ra túm cổ con cún nhấc lên ngắm nghía. Đoạn, anh đặt con cún lên trốc trớt rồi thản nhiên cầm dao chặt đứt đôi cổ con cún. Nhìn cái đầu chó con văng ra bên miệng thớt, nơi cổ rỉ máu đen, Thúy hãi quá kêu lên:
– K-h…iếp! Anh Ẩn …
Mặt anh Ẩn không hề biến dạng. Anh cẩn trọng nhấc thân con cún đưa lên trốc thớt, chỉnh sửa thân con cún cho ngay ngắn rồi anh vung dao. Nhát dao phay dứt khoát, chính xác khiến thân con cún đứt lìa, ruột phòi ra nhầy nhụa. Thúy rùng mình:
– Ôi trời, ghê quá anh Ẩn ơi…
Mặt anh Ẩn vẫn vậy, lạnh tanh, khép kín. Anh chậm rãi nhặt cái đầu chó ngắm nghía rồi thả vào nồi cám lợn đang sôi sùng sục.
Cùng lúc đó thằng Sỹ ôm quả bóng chạy về. Thoáng nhìn thấy cái đầu chó con lều bều trong nồi cám, nó vứt quả bóng, rú lên:
– Ôi… bố ơi!… chó ơi!
Cặp mắt lạnh lùng, sắc lẻm của anh Ẩn lướt từ bộ quần áo loang lổ đất cát của thằng Sỹ rồi xoáy vào khuôn mặt đẫm nước của nó. Lúc sau anh mới hỏi:
– Sỹ! Đi – đâu – về?
Tiếng anh Ẩn nhỏ nhưng gọn, sắc lẻm khiến thằng Sỹ run lập cập, đứng nép vào bờ tường, ngực lép kẹp, miệng ấp úng:
– Thưa bố, con… con…
Thúy ngạc nhiên về sự thay đổi đột ngột trong sự biểu thị tâm trạng nó. Đang mới rú lên vì con cún bị chặt đầu bỗng bắt gặp cái nhìn của bố, cậu ta đã co rúm người lại như gà gặp cáo. Nó vẫn lấm lép nhìn anh Ẩn. Anh Ẩn vẫn nhìn nó lạnh lùng, nghiêm khắc, hỏi:
– Giờ này là giờ gì? Đi – rửa – mặt – rồi – ngồi – vào – bàn!
Vậy là rõ! Thì ra thằng bé vừa phạm quy! Thường ngày, vào giờ này là thằng bé phải ngồi vào bàn học bài, vậy mà hôm nay nó tự ý phá bỏ nguyên tắc của bố đề ra.
Dường như nỗi kinh hoàng khi thấy con cún bị chặt đầu chưa bằng nỗi kinh hoàng khi bị ông bố phát hiện ra nó phạm quy. Mặt nó tái đi. Nó rón rén đến bên bể nước, thỉnh thoảng ngoảnh lại dò xét xem thái độ của bố nó. Anh Ẩn vẫn đứng trước hiên nhà, tay lăm lăm con dao vấy máu. Mắt thằng Sỹ cụp xuống. Thúy đọc trong đôi mắt của nó nỗi ăn năn, vừa lo sợ, như là nếu nó không nhanh chóng sửa sai thì số phận nó cũng giống như con chó con!
Đêm hôm đó, khi đã rất khuya, Thúy nghe tiếng thằng Sỹ rú lên trong buồng ngủ. Tiến rú của nó trong cơn mê giống như tiếng con thú nhỏ bị thương. Trong chuỗi âm thanh không rõ nghĩa ấy hình như nó nói đến con cún. Có lẽ những ấn tượng hãi hùng ban chiều đã tác động đến thằng Sỹ một cách ghê gớm. Chị Ẩn thấy con rú lên như vậy, hốt hoảng:
– Sỹ! Sao thế con?
Sỹ ấp úng:
– Mẹ ơi… con… con sợ…
– Sợ gì, con? Mẹ đây. Sợ gì con nói mẹ nghe nào?
Tiếng chị Ẩn nhẹ nhàng tin cậy khiến thằng bé khóc òa:
– Bố… bố… chặt đầu con cún… sợ lắm mẹ ơi…
– Ôi! Có thế mà cũng sợ. Thôi, nín đi nào. Mai mẹ mua con khác cho con.
Những lời âu yếm, vỗ về của chị Ẩn khiến thằng bé khóc to hơn. Xem chừng để thằng bé tám tuổi rống lên trong khu tập thể là không ổn. Anh Ẩn quát rất nhỏ:
– Thôi, ngủ đi!
Thằng Sỹ ngừng khóc, nhưng tiếng nức nở của nó vẫn vọng sang. Một lúc, có tiếng dép loẹt quẹt. Anh Ẩn nhả từng tiếng, đanh, gọn:
– Sỹ, dậy! Ra – ngoài – bàn – viết – kiểm – điểm! Giấy, bút đây! Viết cho thành khẩn vào, ngủ từ mấy giờ đến mấy giờ, đá bóng từ mấy giờ đến mấy giờ?
Chị Ẩn gắt:
– Anh bày trò gì thế? Anh điên à? Ở cơ quan anh bắt người ta kiểm điểm chưa chán hay sao đêm về còn dựng con dậy viết kiểm điểm!
Tiếng anh Ẩn chắc nịch:
– Để nó ghi nhớ ngày hôm nay rồi sửa chữa. Em biết không, nó ngủ suốt một lèo sau đó ôm bóng đi đá. Ban ngày ngủ chán mắt nên tối đến mới sinh sự thế này.
Chị Ẩn bốp chát:
– Nó sinh sự thế này là vì việc làm của anh lúc chiều làm nó kinh sợ quá, chứ không phải tại nó ngủ chán mắt. Sỹ, lại đây với mẹ, đừng… sợ…
Anh Ẩn phê bình:
– Em chiều con như vậy sẽ làm hỏng nó.
Chợt, anh cao giọng:
– Sỹ! Bố bảo thế nào? Đi-ra-ngoài-bàn!
Thúy biết tính anh Ẩn thường rứt khoát. Khi đã nói là không bao giờ thay đổi ý định. Nhưng chị Ẩn vẫn cương quyết:
– Không có đi đâu cả! Dở hơi! Lúc nào cũng kiểm điểm, nội quy! Nó là cái quái gì? Là thứ xiềng xích thì có. Anh sẽ làm hỏng con vì những thứ xiềng xích ấy. Xem mặt thằng bé tái mét rồi kia kìa. Làm bố là để con yêu thương, kính trọng, chứ để nó sợ khiếp vía thế này à! Con tôi, tôi chỉ cần nuôi nó lớn, dạy nó cái tốt, cái đẹp để học, cái xấu để tránh là đủ rồi, cần gì phải nội quy với kiểm điểm như anh nói. Sỹ, đừng sợ!
Ở bên này Thúy không hiểu rằng thằng Sỹ sẽ nghe mẹ hay ra bàn viết kiểm điểm như mệnh lệnh của ông bố truyền ra. Chỉ thấy tiếng nức nở của nó không còn. Không khí yên lặng rất lâu, tưởng hết chuyện, ai ngờ tiếng chị Ẩn thét lên:
– Trời ơi… anh nhìn gì thế! Anh nhìn vợ con bằng cái nhìn lạnh lùng, bí hiểm như thế à?
Đột nhiên chị khóc tấm tức:
– Trời ơi… anh ác lắm. Bấy lâu nay tôi sống với người vô tâm độc ác mà cứ tưởng tử tế, khiêm nhường. Bề ngoài nhìn vào người ta cứ tưởng nhà này hạnh phúc lắm, nền nếp lắm, nhưng họ có biết đâu rằng, anh đã làm khổ mẹ con tôi vì cái sự nền nếp ấy…
Chị hỉ mũi rồi tiếp:
– Anh như cái hũ nút, anh như người ngậm hột thị! Anh đã tra tấn tôi bằng sự im lặng…
Rõ ràng chị Ẩn đã nổi loạn! Yên lành không muốn lại muốn ông chồng lấy gậy phang cho vào lưng.
Thúy tưởng tượng lại khuôn mặt chị Ẩn hằng ngày. Chị có khuôn mặt đẹp ở nét buồn, đôi mắt ướt não nùng. Tính tình chị dịu dàng, lặng lẽ, kín đáo như anh Ẩn. Người thế mà ghế gớm! May mà anh Ẩn tử tế, nhũn nhặn, không thèm chấp. Anh không chấp nên chị được thể làm già:
– Trời ơi! Tôi sợ anh… Ngày ngày nhìn thấy bộ mặt bì bì phẳng lặng, khép kín của anh là tôi đã rụng rời chân tay. Tôi sợ anh nên bao năm nay tôi đã im lặng chịu đựng. Bây giờ thì tôi không thể chịu đựng được nữa, tôi sẽ phát rồ!
… Sáng hôm sau, khi mở cửa ra, Thúy đã thấy anh Ẩn vươn vai tập thể dục ở sân. Trời lạnh. Vậy mà anh Ẩn vẫn quần đùi, áo may ô mong manh trước gió. Tập thể dục xong, anh Ẩn ngồi rửa mặt bên bể nước. Thúy liếc trộm anh. Biến cố đêm hôm qua không hề làm cho bộ mặt anh xáo trộn. Vẫn vậy, bì bì, phẳng lặng, khép kín và bí hiểm. Anh dùng khăn mặt miết vòng quanh cổ. Thúy nhìn rất rõ những đường gân ngoằn lên nơi cần cổ của anh. Khi ấy, Thúy cảm tưởng đó là những sợi cáp néo lên đầu anh. Và cái cổ con cún máu rỉ ra đen sì, nhầy nhụa lại vụt lên trong đầu chị…
(Rút trong tập sách “Thần tượng”, Nxb.Lao động, 2002)