Vài nét về tác giả:
Tác giả Lưu Tuấn Kiệt sinh năm 1945 tại Phụng Công, Văn Giang, Hưng Yên. Ông là Nguyên cán bộ Viện Điện tử – Viện Kỹ thuật Quân sự – Bộ quốc phòng, Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Hưng Yên.
Các tập thơ đã xuất bản: “Hoa dâm bụt” – NXB Hội nhà văn 1997, “Hồn Cỏ” – NXB Văn học 2000, “Linh vật”- NXB Hội nhà văn 2023, Truyện ngắn “Hương rau khúc”- NXB Hội nhà văn 2005, “Tiểu luận và thơ” – NXB thanh niên 2020, “Tản văn Heo may” – NXB Hội nhà văn 2012.
Giải thưởng: Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1979, Giải B Cuộc thi truyện ngắn VHNT Hải Hưng 1996, Giải B Thơ Giải thưởng Phố Hiến (1997 – 2000) và (2006 – 2010).
1. HÓA THẠCH
Giữa nhà cao
Trập trùng Tam Đảo
Một lô cốt
Rêu phong
Cỏ lau phủ họng đen
Lỗ châu mai trừng trừng
Mắt con thú dữ
Mây vẫn trắng
Mang màu tiền sử
Đại ngàn cao thoang thoảng hương bay
Con dã thú nằm dài
Meo mốc
Những lứa đôi
Áo váy lưng trời
Thầm thì trên lưng con thú
Hoa rừng như ngừng nở
Chim rừng như ngừng bay
Tam Đảo
Nhìn nhau
Ngơ ngác!
2. BONG BÓNG MƯA
Này bong bóng ơi!
Có một thời ta chạy theo bong bóng
Cơn mưa tháng năm
Bong bóng đầy ắp sân nhà
Cơn mưa tháng mười
Mẹ cha không về kịp
Một mình ta đứng khóc
Thóc cào vào
Mưa tãi thóc ra!
Có niềm vui thầm thì
Bong bóng
Cô hàng xóm xinh xinh
Quần xắn trong mưa
Bì bõm
Qua nhà
Để ta yêu nhau
Bong bóng nở hoa
Âm thầm thương nhớ
Bong bóng ngập đường
Tràn xuống ao quê
Có nỗi buồn trong cơn mưa
Tiền tài – danh vọng
Bong bóng – treo
Sân thóc ướt rồi con không về được!
Bong bóng – treo
Thăm thẳm nỗi người trông ngóng chờ mong…
Quê hương vẫn ngàn đời
Ắp đầy bong bóng
Vỡ tự sân nhà – đến cái hư không!
3. SOI TRĂNG
Ai gọi gương trăng
Lạ chưa?
Chúng mình soi gương
Chẳng bao giờ thấy mặt
Trăng đổ vàng trên tóc
Đẫm hương trời trên môi
Ta ngồi bên nhau
Cùng nhìn trăng khao khát
Soi vào trăng
Hơi ấm thêm gần
Soi vào trăng
Cùng thấy Cuội già
Nhặt lá đa
Khẽ thả
Cho những lứa đôi
Tình tự trên đời
Chiếc lá trên tay anh ướt sũng
Thơm mùi trăng trinh nguyên
Gương trăng một thời
Khắc khoải lòng ta
Nỗi nhớ thương vằng vặc
Em tròn căng như trăng
Trong giá lạnh trăng vẫn xanh vời vợi
Từng tháng vòng em
Thao thức trăng rằm
Ta cảm ơn cuộc đời tươi đẹp
Đêm đêm được soi vào trăng nhau
Có trăng em làm tan cơn khát
Để trăng thơ sáng mãi trên đầu.
4. SỐ PHẬN
Tưởng đã đi về mây gió
Ai ngờ còn có hôm nay
Cái thằng khỏe như trâu mộng
Ốm sau mà cũng đã “bay’’
Lại thằng sức còn hừng hực
Lái xe chở rác thần tình
Sáng ra nằm khoèo góc chợ
Lên tiên sướng… lủi… một mình!
Thế mới gọi là số phận
Khổ đau chỉ có ở đời
Mà sao con người ham sống
Ham ôm ấp những buồn vui?
5. HƯ VÔ
Ngày giỗ cụ tôi
Bà dỗi với ai
Đầu đội nón mê
Tựa cửa đình Ngò
Tôi ngây thơ
Biếu bà nắm xôi
Bà khóc
Nước mắt già chứa chan
Giờ – đĩa xôi thật đầy
Tôi chưá chan nước mắt
Trong ảo mờ khói hương
Có bà
Ai bảo hư vô?
6. ĐƯỜNG TRĂNG
Từ bao giờ em gọi đường trăng ?
Ta bắt gặp cổng làng trăng đến
Trăng soi suốt đêm đêm cho chúng mình hò hẹn
Để em bâng khuâng
Trăng lặn xuống… ao chùa!
Quê hương mình đã khác ngày xưa
Đường bê tông – hai đầu trăng lên xuống
Đường bê tông – nối mùa hoa với mùa lúa chín
Điện sáng cùng trăng soi bước em về
Quê hương mình còn nắng còn mưa
Lũ trẻ chân trần
Qua đường trăng
Vụt lớn!
Như chúng mình thơ
Người mai sau sẽ cùng nhau hò hẹn
Con đường trăng bát ngát giữa làng mình
Rồi qua đây những đám cưới thật xanh
Quả cau xanh
Lá trầu xanh
Cùng áo ai xanh màu trời biếc
Con đường trăng đi theo mải miết…
Trong từng đôi lứa nhớ thương nhau.
7. NƠI TÌNH YÊU Ủ TỪ TRONG CÁT
Xa xưa
Có người đàn bà quây mùng tắm
Gáo thứ nhất
Thơm mắt làn da
Gáo thứ hai
Lộ ra người đàn ông nguyên khuôn trời đất
Họ thương nhau thành vợ thành chồng
Có sông nước và đất trời chứng giám
Ngàn năm
Cát còn đây
Đời người gió thoảng
Chàng trai nghèo
Lấy công chúa giàu sang
Còn cái khố nhường cha nhắm mắt
Ai dám mơ người ấy bạc vàng ?
Chỉ có tình yêu họ mới thành Tiên Dung- Đồng Tử
Chỉ có thời gian đất thành cát pha lê
Chỉ có con sông nói lời chân thật
Hỡi ngàn năm con sóng hát say mê!
Bao thế hệ Tiên Dung sinh con đẻ cái
Dựng đất Hưng Yên chặt lau sậy làm nhà
Đánh giặc kiên cường, cha con nối bước
Vùi cát lên người lừa địch đi qua
Những cháu con chàng trai Đồng Tử
Phạm Ngũ Lão mặc giáo đâm vào chân
Còn mải mê mưu lược
Tô Hiệu trong lao
Để lại sắc hoa đào
Đất nước xanh thêm áng thơ Đoàn Thị Điểm
Đêm Nguyệt hồ vụt sáng một vì sao
Có một thời ong bay qua nhà Tỉnh ủy
Con cháu Tiên Dung mắt hạt nhãn lồng
Theo tay Bác Hồ tìm trong đất cát
Đưa nước về đồng
Cây lúa đi lên!
Có một thời
Tình yêu làm ta rưng rưng nước mắt
Mẹ tiễn con đi nấu bánh đúc cua đồng
Con cua bò ngang- nhớ đồng xa mẹ cấy
Con cua ngoi lên nhớ trưa nắng mẹ về
Mẹt bánh đúc Mĩ Hào
Đại đội ăn không hết
Thương mẹ nghèo gạt nước mắt con đi
Có một thời
Chúng tôi nhận ra nhau
Những dáng hình Tiên Dung – Đồng Tử
Giọng “ lói” người đâu nghe đã dịu dàng
Uống rượu cần nhớ rượu quê Trương- Xá
Qua phà Rừng nhớ Yên Lệnh đò sang
Chúng tôi nhận ra nhau
Mắt nào đen ươn ướt
Bởi nhãn quê ta ngọt lịm trưa hè
Có nửa vầng trăng trên môi em cười nụ
Đôi vai tròn gợi nhớ vòng đê
Đã một thời
Cháu con Tiên Dung làm nên lịch sử
Hôm nay chúng tôi lại đứng trước sang giàu
Trước quyến rũ đồng tiền
Vẫn không quên tổ tiên nhường nhau chiếc khố
Vẫn không quên lầu son gác tía
Đổi bằng bãi mía nương dâu
Chúng tôi có tình yêu ủ từ trong cát
Nghìn năm xưa còn sáng hôm nay
Những hậu duệ Đồng Tử – Tiên Dung
Sẽ làm nên huyền thoại
Quê hương
đổi mới
từng ngày
8. CHỜ ĐỢI THÁNG BA
Tháng ba cây cà trắng quả
Ngọn bí bò trong mưa
Tháng ba đồng ngợp màu xanh
Cây lúa cho người nóng ruột
Em về – lá dâu còn ướt
Tầm đang ăn rỗi đợi người
Tháng ba rộn ràng trống hội
Sao là cô Tấm em ơi?
Hãy nói cho nhau một lời
Em bảo – mùa xuân chưa vội
Nhưng nào tháng ba có đợi
Thoáng chùm hoa gạo bay bay …
Cầu bập bênh
Ngoài đồng lúa rủ câu
Trong nhà
Tầm ăn rỗi
Vai em mang
Chiếc cầu
Bập
Bênh
Anh đỡ thế nào
Em bớt mỏi?
9. HOA BÁO HỘI LÀNG
Em ơi mùa hè!
Cây gạo đầu làng khoe chùm hoa đỏ
Ta bâng khuâng nhớ về thuở nhỏ
Em chạy dọc bờ đê
Đuổi đón hoa rơi
Quê mình mùa nước đầy vơi
Cao cao ngọn gạo bao đời gió mưa
Hội làng mồng tám – tháng tư
Áo em khâu đến bao giờ cho xong?
Đình làng mái lượn cong cong
Tam quan ngói đỏ phượng rồng lại bay
Nhớ gì sao mắt cay cay
Tuổi thơ đi hội túi đầy dưa gang
Hoa rơi – rắc pháo quanh làng
Em học ăn trầu môi đỏ
Anh đến đình làng
Khăn xếp áo the
Con gái – con trai
Học về
Lưng thắt đai xanh hoa lý
Đầu đội khăn hồng
Gươm giáo cầm tay
Hội làng – ra trận hôm nay
Quân tướng hoa cài trên ngực
Anh chạnh nhớ ngày em đứng khóc
Hoa đỏ trời tiễn biệt anh đi!
*
Xa xôi ai hẹn tìm về
Thấy hoa gạo đỏ là quê hội làng
Người vui lòng dạ xôn xang
Hội vui trống trận rộn ràng như say
Đầu làng lửa gạo bay bay
Nhặt hoa em gái cầm tay má hồng
Hội làng có lửa cha ông
Người xưa giữ lửa thắp trong hội làng…
Người xưa như bóng khói nhang
Em đi lễ hội để làm… người xưa
Sắc màu như thực như mơ
Giăng giăng bông gạo vương hờ áo nhau
*
Người xưa – ai dễ quên đâu?
Thắp nén hương lên gọi thời gian khổ
Bạn bè ơi – ngã xuống hãy mau về
Cứ thẳng hướng đầu làng – hoa gạo
Mẹ vẫn chờ – trống giục hội làng quê!
10. Trang mới tháng tư
Tháng tư trời đất gọi nhau
Ầm ì tiếng sấm
Ngọn tre đầu làng
Bẻ lái
Nồm nam
Tháng tư
Cỏ ào ra như bút
Chống màn sương lên cao
Viết lên trời xanh muôn ngàn trang sách
Vẩy tê tê
Xếp nửa bầu trời
Cây gạo già áo giáp ủ gai
Mai bút mòn buốt giá
Sáng nay
Tung khăn Sương
Đầu bốc lửa
Thăp đỏ trời tháng tư
Thiêu cháy những chân mây cũ…
Leave a Reply